Ôn tập Tư tưởng HCM
I. Câu Hỏi Ngắn:
1. Lộ trình của HCM từ khi rời Nghệ An đến Nhà Rồng là:
- Huế: 1096-
5/1909;
- Bình Định:
5/1909- 8/1910;
- Bình Thuận:
8/1910- 2/1911;
- Sài Gòn: 2/1911-
5/6/1911.
2. Tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc
được xuất bản đầu tiên vào năm 1925 ở Pari, lần đầu tiên ở Việt Nam bằng tiếng
Pháp vào năm 1946 và lần đầu tiên ở Việt Nam bằng tiếng Việt vào năm 1960.
3. Khái niệm “Nhà nước của dân, do dân, vì dân” được HCM sử
dụng lần đầu tiên vào năm 1927.
4. Quan điểm: “Chúng ta phải đấu tranh cho tự do, độc lập của
các dân tộc khác như là tranh đấu cho dân tộc ta vậy” của HCM lần đầu tiên được
biết đến vào năm 1914.
5. Quan điểm “ dĩ bất biến ứng vạn biến” trong tư tưởng HCM
lần đầu tiên được biết đến vào ngày 31/5/1946.
6. Đến Liên Xô, lần đầu tiên HCM biết đến “ Chính sách kinh
tế mới” của Lênin vào năm 1923.
7. Lần đầu tiên HCM đưa ra khái niệm về Văn hóa trong Mục đọc
sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù( 1942- 1943): “ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là tổng hợp của mọi phương thức
sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn”.
8. Hồ Chí Minh lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị thế giới
bằng sự kiện gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam gồm 8 điểm đến Hội nghị
Vécxây năm 1919.
9. Ngày 18/6/1919, Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho những người
VN yêu nước tại Pháp gửi đến hội nghị Vécxây Bản yêu sách gồm 8 điểm của nhân
dân An Nam. Nội dung cơ bản của Bản yêu sách này gồm những vấn đề sau:
- Đòi quyền
bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với Châu Âu,
xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh, thay thế bằng chế độ đạo luật;
- Đòi quyền tự
do, dân chủ tối thiểu cho nhân dân An Nam.
10. Theo HCM mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
VN là mâu thuẫn giữa một bên là yêu cầu phải tiến lên xây dựng 1 chế độ XH mới
có “ công, nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến” với 1 bên là tình
trạng lạc hậu phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá hoại mục tiêu của chúng
ta.
11. Năm 1921, cùng với
1 số người yêu nước của các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Liên Hiệp
thuộc địa. Hội này xuất bản tờ báo “Người cùng khổ ( Le Paria) vào tháng
4/1922.
12. Theo HCM, trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, nền
văn hóa ở nước ta có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng.
13.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng HCM trong thời đại cách mạng
vô sản là vấn đề dân tộc thuộc địa.
14. Cơ sở đầu tiên,
sâu xa cho sự hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc là cơ sở tinh thần
yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng dân tộc của dân tộc Việt Nam.
15. Quan điểm về 1 mô hình nhà nước:“ Dựng ra chính phủ công
nông binh” được Hồ Chí Minh xác định vào năm 1930.
16. Hồ Chí Minh ví chủ nghĩa đế quốc như hình tượng 1 con đỉa
có 2 cái vòi bám và hút máu ở thuộc địa và chính quốc. Theo người, muốn tiêu diệt
chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời cắt bỏ cả 2 vòi, 1 ở chính quốc và 1 ở thuộc
địa.
17. Quan điểm và 1 mô hình nhà nước: “lập chính phủ dân chủ
cộng hòa” được Hồ Chí Minh xác định vào năm 1941.
18. Hồ Chí Minh đề cập đến con người theo phạm vi và nhiều
nghĩa rộng, hẹp khác nhau. Theo đó, ở nghĩa rộng, Người dung khái niệm đồng bào
cả nước; ở nghĩa hẹp là “gia đình, anh em họ hàng, bầu bạn”; ở nghĩa rộng nhất
là loài người.
19. Trong tư tưởng HCM về đạo đức, Người ví “ Cần với Kiệm
phải đi đôi với nhau” như hai chân của con người.
20. Trong tư tưởng HCM về đạo đức, theo Người, chính đối với
mình thì phải không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn kiểm
điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.
21. Lý thuyết lục hòa là 1 trong những cơ sở lý luận quan trọng
góp phần hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc. Lý thuyết này do học
thuyết Phật giáo khởi xướng.
22. Lý thuyết “ đại đồng ” là 1 trong những cơ sở lý luận
góp phần hình thành tư tưởng HCM về đại đoàn kết dân tộc, về CNXH. Lý thuyết
này do học thuyết Nho giáo khởi xướng.
23. Tư tưởng “ nước lấy dân làm gốc” do học thuyết Nho giáo
khởi xướng.
24. Theo Hồ Chí Minh, học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính
sách của nó phù hợp với điều kiện nước ta.
25. Quan điểm của HCM khi Người đánh giá về tổ chức“ Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên” đối với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là quả
trứng, mà từ đó nở ra con chim cộng sản và là cơ sở cho một Đảng lớn hơn.
26. Theo HCM, “ giặc nội xâm” gồm có những loại: tham ô,
lãng phí, quan liêu.
27. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa đức và tài được thể hiện
trong yêu cầu đối với người cách mạng, Hồ Chí Minh còn dùng những khái niệm: hồng
và chuyên; hiền và minh.
28. Sự kiện đánh dấu sự hình thành về cơ bản tư tưởng HCM về
con đường cách mạng VN là đọc Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương của LêNin về những
vấn đề dân tộc và thuộc địa (tháng 7/1920).
29. Nội dung cốt lõi trong tư tưởng HCM là tư tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH.
30. Theo quy chế, việc thi tuyển công chức bao gồm: chính trị,
kinh tế, pháp luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. ( HCM ký sắc lệnh 76/SL ngày
20/5/1950- Quy chế công chức).
31. Vấn đề được HCM bổ sung vào cơ sở lịch sử của CN Mác là
dân tộc học phương Đông.
32. Theo Hồ Chí Minh, nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài của thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của
CNXH.
33. Theo Hồ Chí Minh, bản chất giai cấp công nhân của nhà nước
ta biểu hiện ở những nội dung:
- Nhà nước ta do
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo;
- Bản chất giai
cấp thể hiện ở định hướng đưa đất nước ta đi lên CNXH;
- Bản chất giai
cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập
trung dân chủ.
34. Theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ cách mạng XHCN , nền văn
hóa VN thể hiện ở những tính chất: tính XHCN về mặt nội dung và tính dân tộc về
hình thức.
35. Trong các cách tiếp tận CNXH dưới đây, cách tiếp cận thể
hiện sự giống nhau giữa HCM với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin là
tiếp cận tư tưởng về CNXH từ phương diện kinh tế.
36. Nhận thức về CNXH ở HCM là kết quả tác động tổng hợp của
các nhân tố: Truyền thống và hiện đại; Dân tộc và quốc tế; Kinh tế, chính trị,
đạo đức và văn hóa.
37. Theo Hồ Chí Minh, nền kinh tế XHCN mà Người phác họa
trong tương lai có những hình thức sở hữu:
- Sở hữu nhà
nước( tức sở hữu toàn dân);
- Sở hữu tập
thể, sở hữu của những người lao động riêng lẻ( kinh tế cá thể);
- Sở hữu của
các nhà Tư bản.
38. Đề tài nghiên cứu của HCM ở lớp nghiên cứu sinh do Viện
nghiên cứu các vấn đề dân tôc và thuộc địa mở vào năm 1937. Đề tài nghiên cứu
có tên là “ Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á”
39. Khi ở cương vị chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã ký công bố
16 đạo luật và 613 sắc lệnh.
40. Ngày 3/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm
thời, HCM xác định 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước VNDCCH. Trong 6 nhiệm vụ cấp
bách đó, nhiệm vụ thứ ba là chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ.
41. Khái niệm Nhà nước của dân, do dân, vì dân do A.Lincôn(
Tổng thống Mỹ cuối thế kỷ 19) đưa ra.
42. Lý luận cách mạng bạo lực của HCM gồm có những nội dung
cơ bản:
- Bạo lực cách mạng
VN là sức mạnh tổng hợp của toàn dân, bao gồm sức mạnh tổng hợp của cả 2 yếu tố,
của 2 lực lượng: Chính trị và quân sự;
- Cách mạng bạo
lực là dùng sức mạnh tổng hợp đó để giành chính quyền và giữ chính quyền;
- Tùy tình hình
cụ thể mà quyết định hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị cho
phù hợp, sử dụng đúng và khéo kết hợp 2 hình thức đấu tranh đó để giành thắng lợi
cho cách mạng.
43. Theo Hồ Chí Minh, động lực quan trọng và quyết định nhất
của CNXH chính là con người, nhân dân lao động, nòng cốt là công- nông- trí thức.
44. Tư tưởng HCM về Đảng CSVN hình thành dựa trên các yếu tố
lý luận: Học thuyết của Mác về Đảng cộng sản và trực tiếp là học thuyết về đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân, đã được Lênin đưa ra từ những năm đầu của thế
kỷ 20.
45. Theo Hồ Chí Minh, tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dân
tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.
46. Trong quan niệm về con người, ở góc độ xem xét các quan
hệ XH, HCM chia con người ra 2 giống người: Những người làm điều thiện và những
người làm điều ác.
47. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính
khoa học đúng đắn vừa có tính chất cách mạng sâu sắc. Tư tưởng này thể hiện sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố:
- Dân tộc và
giai cấp;
- Chủ nghĩa
yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng;
- Độc lập dân
tộc cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho các dân tộc khác.
48. Theo Hồ Chí Minh, những giai cấp ủng hộ và tham gia cách
mạng tức là bầu bạn cách mạng của công nông.
49. Trong bài Nói chuyện tại lớp chuẩn huấn khóa II của Bộ
Công an, ngày 16/5/1959, HCM ví tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân như hai
yếu tố: như lúa với cỏ dại.
50. Theo HCM, nguyên nhân gây nên bệnh chủ quan là: kém lý
luận; khinh lý luận; lý luận suông.
51. Để xây dựng CHXN ở VN trong thời kỳ quá độ, HCM nêu lên
2 nguyên tắc:
- Một là, xây
dựng CNXH là 1 hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần nắm vững nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chế độ mới, phải học tập kinh nghiệm
của các nước anh em nhưng không áp dụng máy móc vì nước ta có đặc điểm riêng của
ta.
- Hai là, xác
định bước đi, biện pháp phải xuất phát từ thực tế, đặc đểm dân tộc, nhu cầu và
khả năng thực tế của nhân dân.
52. Theo đúng tư tưởng HCM, nền tảng của khối đại đoàn kết
toàn dân là liên minh công- nông và lao động trí óc.
53. Tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc CM trên Thế giới:
cách mạng Mỹ, cách mạng tư sản Pháp và các kiểu, các hình thức nhà nước mà những
cuộc cách mạng này xây dựng sau khi CM thành công, HCM đi đến kết luận đó là những
cuộc CM chưa đến nơi, chưa triệt để.
54. Theo HCM, lộ trình của các cuộc cách mạng ở nước lệ thuộc
và thuộc địa là: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người
và loài người.
55. Quan điểm đúng khi đề cập đến nội dung tư tưởng HCM về
lĩnh vực văn hóa văn nghệ: Văn nghệ là 1 mặt trận, văn nghệ sỹ là chiến sỹ, tác
phẩm văn nghệ là vũ khí sắc bén trong đấu tranh CM, trong xây dựng XH mới, con
người mới; Văn nghệ phải gắn với thực tiễn đời sống nhân dân; Phải có những tác
phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại mới của đất nước và của dân tộc.
56. Khi đề cập đến mối quan hệ giữa “ tập thể lãnh đạo ”
và “ cá nhân phụ trách ” HCM đã dùng 2
khái niệm để diễn đạt ý nghĩa tương đương là: Dân chủ và tập trung.
II. Câu Hỏi Dài:
Vấn đề 1: Sự hình thành và những đặc điểm cơ bản của tư tưởng
HCM.
Đã một thế kỷ
trôi qua kể từ ngày 5 tháng 6 năm 1911, ngày Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc để bắt
đầu một cuộc hành trình dài khảo sát xem các dân tộc khác làm như thế nào trong
đấu tranh giành độc lập rồi trở về vận dụng để giải phóng dân tộc Việt Nam. Cái
ngày lịch sử ấy đã đi sâu vào lòng người của bao thế hệ người Việt Nam và thế
giới với biết bao tình cảm chứa chan, rung động: Khi tôi còn là hạt bụi, Người
đã lên tàu đi xa; từ thành phố này Người đã ra đi (lời của những bài hát); Đất
nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi, cho tôi (nhà thơ Chế Lan Viên) làm sóng
dưới con tàu đưa tiễn Bác hay như nhà báo người Úc là Bocset đã nói: “Nói tới một
người cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai
ngoài chủ tịch HCM” vì “HCM đã sống một cuộc đời với những tầm cỡ phi thường và
đã có những cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài người. Chính lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người trổ
thành bài ca chi niềm vinh quang đối với triển vọng và khả năng của con người…”.
Hơn thế nữa, cái ngày lịch sử ấy còn là ngọn nguồn cho một Việt Nam hiện đại
đang chuyển mình, cất cánh hôm nay.
Trở về để
bay xa hơn, đế thấu được, cảm được, nghe được trái tim, trí tuệ và nghị lực phi
thường của một thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, của một Bác Hồ kính yêu, của
một tư tưởng HCM vĩ đại, tư tưởng của một con người có con mắt đại bàng của tư
duy (nói theo cách nói của Hegel), có sự nhạy cảm đặc biệt đối với lịch sử, thấu
hiểu cuộc sống con người, có nhận thức sâu về vận mệnh dân tộc, nỗi niềm của
nhân dân và hướng đi của thời đại.
Trước ngày
5/6/1991, có thể tóm tắt lộ trình của Nguyển Tất Thành từ khi rời Nghệ An đến
Nhà Rồng là: Huế (1906 - 5/1909) - Bình Định (5/1909 -8/1910) - Bình Thuận
(8/1910 - 2/1911) - Sài Gòn (2/1911 - 5/6/1911). Tại Sài Gòn trước khi rời Tổ
quốc ra đi tìm đường cứu nước trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin Nguyễn Tất
Thành đã từng ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của Liên Thành công ty đặt tại Sài
Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường Châu Văn Liêm, Di
tích số 5 Châu Văn Liêm được Bộ văn hóa ký quyết định công nhận là di tích lịch
sử số 1288-VH/QĐ ngày 16/11/1988); nhà số 128, Khánh Hội.
Và rồi
ngày 5/6/1911 đã đến, Người bắt đầu cuộc hành trình sang phương Tây. Về mục
đích của chuyến đi này, năm 1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi
tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng,
Bác ái…Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu
đằng sau những chữ ấy”. Một lần khác trà lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân
dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai
sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh,
có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem
xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Một hành
trình dài qua nhiều nước (Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi,
Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông, Máctiních (Trung Mỹ), Uragoay và áchentina
(Nam Mỹ), Mỹ, Anh …): lao động bằng nhiều nghề để tồn tại; hoạt động chính trị
để rút kinh nghiệm, học tập, nghiên cứu tìm tòi, khám phá rồi vận dụng…đến năm
1917 khi cuộc cách mạng XHCN thàng Mười Nga nổ ra và thành công, một cuộc cách
mạng đến nơi và triệt để, ánh sáng của nó lan tỏa khắp nơi và đến với chàng
thanh niên Nguyễn Tất Thành: “Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc
cách mạng Tháng Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người”. Không bỏ
qua cơ hội, Người quyết tâm tìm hiểu cuộc cách mạng này và tìm hiểu Lênin. Có
thể khẳng định đây là bước ngoặt nhận thức đầu tiên trong hành trình tìm con đường
giải phóng dân tộc của Nguyễn Tất Thành. Bước ngoặt nhận thức này thể hiện ở chỗ
từ thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
cũng như sự thành công của cách mạng XHCN tháng Mười Nga đã mang lại cho Nguyễn
Tất Thành nhận thức quan trọng, tạo tiền đề cho việc xác định đúng con đường
cách mạng Việt Nam: Ở những năm đầu thế kỷ XX, chỉ có những phong trào cách mạng
nào có mục tiêu giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước
mình thì mới có thể đi tới thắng lợi.
Đến năm
1919, bằng sự kiện gửi Bản yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình
được tổ chức tại Véc xây (Pháp), Nguyễn Ái Quốc đã lần đầu tiên bước lên vũ đài
chính trị của thế giới để đòi những quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam: quyền tự
do dân chủ tối thiểu và quyền bình đẳng về chế độ pháp lý. Những yêu cầu này đã
chưa được chấp nhận lúc bấy giờ, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm đầu
tiên: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, các dân tộc phải dựa vào sức mình là
chính, không ỷ lại hay trông chờ vào sự giúp đỡ của các dân tộc khác. Bài học
này sau đó đã được Người nâng lên tầm lý luận về tự lực cánh sinh: Một dân tộc
tộc mà trông chờ vào sự giúp đỡ của dân tộc khác trong công cuộc giải phóng
chính mình thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập, tự do: “Sự giúp đỡ của
các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ
người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp
đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Từ sự kiện này, lần đầu tiên bút danh
Nguyễn Ái Quốc chính thức được sử dụng.
Không nản
chí, Người tiếp tục đấu tranh, tiếp tục hoạt động, nghiên cứu lý luận, đến năm
1920, tờ báo Nhân đạo – cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Pháp đã cho đăng bài
viết của Lênin: Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa,
số ra ngày 16, 17 tháng 7/1920. Đọc sơ thảo ấy, Người đã phát hiện và tìm ra được
con đường đi cần thiết cho cách mạng Việt Nam và khẳng định: đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là cái giải phóng dân tộc ta: “trong luận cương ấy, có những
chữ chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi, đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng
hiểu được phần chính. Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi,
sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình
trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng
bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải
phóng chúng ta”.
Con đường ấy
là con đường làm cách mạng vô sản: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không
có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Đó là niềm vui đầu tiên của một
chiến sĩ cách mạng An Nam – Nguyễn Ái Quốc trong hành trình gian khổ tìm con đường
giải phóng dân tộc. Tiếp theo đó là sự kiện Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Đảng
Cộng sản Pháp và bỏ phiếu tán thành việc thành lập Quốc tế thứ 3 (Quốc tế cộng
sản) do Lênin sáng lập đã đánh dấu 1 bước ngoặt quan trọng thứ hai trong nhận
thức: từ lập trường của chủ nghĩa yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã chuyển sang lập
trường vô sản quốc tế: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thư 3. Từng bước một,
trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực
tế dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”. Chính những sự kiện của năm 1920 về cơ bản đã đánh dấu sự ra đời của
tư tưởng HCM.
Tiếp tục
nghiên cứu lý luận của Lênin, rồi nghiên cứu lý luận của các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác: Mác, Ăngghen, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: chỉ có chủ nghĩa Mác –
Lênin mới có thể giải phóng dân tộc ta khỏi ách nô lệ lầm than. Chủ nghĩa ấy
như kim chỉ nam, như chiếc túi thần kỳ, như ngọn đèn pha, như mặt trời soi sáng
cho con đường cách mạng Việt Nam: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với chúng ta, những
người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ,
không những là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta
đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản.
Không chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc còn
biết tiếp thu, chắt lọc những tinh hoa lý luận của nhân loại cùng với việc kế
thừa những giá trị truyền thống của dân tộc để hình thành đầy đủ một tư tưởng
HCM mang đậm chất Việt Nam.
Khẳng định
tư tưởng HCM mang đậm chất Việt Nam là dựa trên các cơ sở sau:
Thứ nhất,
xuất phát điểm của tư tưởng ấy là từ thực tiễn xã hội Việt Nam cuối thể kỷ XIX
đầu thế kỷ XX: dân chúng lầm than, cơ cực vì sự dày xéo của thực dân và sự nổ lực
vươn lên đấu tranh giành độc lập là chưa thực hiện được vì sự bế tắc về đường lối
cứu nước lúc bấy giờ dẫu rằng tinh thần và nhiệt huyết của dân tộc là rất cao:
sẵn sàng đúc gan sắt để dời non lấp bể, xối máu nóng để rửa vết nhơ nô lệ song
vẫn trăm thất bại mà chư có một thành công.
Thứ hai,
xuyên suốt tư tưởng ấy là tinh thần “dĩ vất biến, ứng vạn biến” (quan điểm này
của HCM được biết đến vào ngày 31/5/1946) cho phù hợp với điều kiện cụ thể của
Việt Nam.
Thứ ba, cốt
lõi và đích đến cuối cùng của tư tưởng ấy là một Việt Nam độc lập và CNXH cùng
với một tinh thần quốc tế trong sáng.
Tư tưởng
HCM mang đậm chất Việt Nam là một hệ thống gồm ba đặc điểm cơ bản sau:
Một là, sự
kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: chủ nghĩa yêu nước
và ý chí đấu trang kiên cường, bất khuất của dân tộc; ý thức nhân nghĩa, thủy
chung, đoàn kết; tinh thần lạc quan yêu đời; những phẩm tính anh dũng trong đấu
trang, cần cù trong lao động sản xuất, ham học hỏi và sáng tạo trong học tập…
Những giá
trị truyền thống này đã thấm sâu và giữ vai trò chủ đạo trong nhận thức và hành
động của HCM tiêu biểu như:
* Tinh thần
lạc quan thể hiện trong “Ngục trung nhật ký”, dù điều kiện hoàn cảnh tring tù
là vô cùng khắc nghiệt dong vẫn ngắm trăng soi ngoài cửa sổ vì cảnh đẹp đêm nay
khó hửng hờ.
* Tinh thần
lạc quan còn thể hiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam thời kỳ ở Việt
Bắc: Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng, cuộc đời cách mạng thật là sang.
* Tinh thần
kiên cường, bất khuất trong cách mạng Tháng Tám: dù có đốt cháy cả dãy Trường
Sơn cũng quyết tâm giành cho được độc lập dân tộc, cũng như trong Lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến năm 1946: chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không
chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
* Tinh thần
yêu nước, thương dân: không có gì quý hơn độc lập tự do (17/7/1966), ham muốn tột
bậc là làm sao cho nước Việt Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân ai cũng có cơm
ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu
dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi.
Hai là, sự
tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân loại ở cả phương Đông và
phương Tây.
Ở phương
Đông, HCM chủ yếu tiếp thu có chọn lọc hệ tư tưởng lớn: Phật giáo và Nho giáo.
HCM nói: tuy Khổng Tử là phong kiến nhưng trong học thuyết của ông có nhiều ưu
điểm vì thế chúng ta phải nên học; Học thuyết của Nho giáo có ưu điểm của nó là
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; còn Học thuyết của Phật giáo có ưu điểm của nó là
lòng nhân ái cao cả. Ngoài ra, Người còn tiếp thu Học thuyết Tam dân của Tôn
Trung Sơn (Trung Quốc): Chủ nghĩa tam dân (dân tộc độc lập, dân quyền tự do,
dân sinh hạnh phúc) có ưu điểm vì chính sách của nó phù hợp với Việt Nam. Chính
sự tiếp thu, chắt lọc tinh hoa tư tưởng văn hóa phương Đông đã tạo nên những
nét đặc sắc trong tư tưởng HCM.
Ở phường
Tây, HCM chủ yếu tiếp thu tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng (Pháp) như
Rousseau, Voltair, Montesquieu với tư tưởng chủ đạo là: tự do, bình đẳng, bác
ái. Ngoài ra, Người còn tiếp thu những tư tưởng về dân chủ pháp luật, nhà nước
và con người ở phương Tây như: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) hay tư tưởng về một nhà nước của dân,
do dân, vì dân của Abraham Lincoln (Tổng thống thứ 16 trong lịch sử Hoa Kỳ),…
Ba là, dự
vận dụng sáng tạo Học thuyết Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định: các nguyên lý không phải là
điểm xuất phát của quá trình nghiên cứu mà là điểm kết thúc của quá trình
nghiên cứu. Không phải giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên
lý mà ngược lại các nguyên lý phải phù hợp với giới tự nhiên và loài người. Xuất
phát từ đó, HCM cho rằng Học thuyết Mác – Lênin phải được vận dụng phù hợp với
Việt Nam: “Lý luận không phải là cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo;
lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ta từ trong thực
tiễn sinh động”.
Sự vận dụng phù hợp ấy đã được HCM thể hiện bằng một loạt
các quan điểm sáng tạo đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm chứng góp phần
bổ sung, phát triển và hoàn bị Học thuyết Mác - Lênin. Tiêu Biểu như:
* Khẳng định
chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là một động lực lớn trong đấu trang
giành độc lập và phát triển đất nước.
* Giải quyết
vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp. Theo đó, trong mối quan hệ giữa vấn đề
dân tộc và giai cấp, Người cho rằng giải quyết vấn đề dân tộc là trước hết ở Việt
Nam, là điều kiện để giải quyết vấn đề giai cấp. Xuất phát từ phát hiện này,
người cho rằng muốn tiêu diệt chủ nghĩa đế quốc thì phải đồng thời tiến hành
song song, chủ động cả hai cuộc cách mạng: cách mạng vô sản ở chính quốc và
cách mạng giải phóng dân tộc ở các quốc gia lệ thuộc, thuộc địa và khẳng định
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động, có thể nổ ra và
giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
* Quan điểm
khằng định về sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở các quốc gia lệ thuộc và
thuộc địa: Đảng Cộng sản Đông Dương là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác –
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
* Quan điểm
khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân đồng thời
cũng là Đảng của dân tộc Việt Nam.
* Quan điểm
liên minh các dân tộc phương Đông là một trong những cái cách của cách mạng vô
sản trong quan điểm về đoàn kết quốc tế.
* Tiếp cận
học thuyết CNXH từ phương diện nhu cầu và khát vọng giải phóng dân tộc, con người
một cách triệt để; phương diện đạo đức (thắng lợi CNXH không thể tách rời thắng
lợi của cuộc đấu trang trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân).
Chân lý
luôn là cụ thể, cách mạng luôn là sáng tạo. Sự sáng tại cách mạng của HCM trước
hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược về đường lối cách mạng Việt
Nam.
Ba đặc điểm trên khẳng định sự ra đời
của tư tưởng HCM là có cơ sở khách quan và phản ánh đúng chân lý: Không một tư
tưởng nào lại ra đời trên một mảnh đất trống không mà bao giờ nó cũng ra đời
trên một mảnh đất hiện thực. Trên mảnh đất hiện thực, nó kế thừa những gì có
giá trị, hợp lý đồng thời chọn lọc và bổ sung vào đó những nhân tố mới. Đồng thời
nó cũng được xác định là ba bộ phận cơ bản thuộc nội hàm của khái niệm tư tưởng
HCM. Nhiệm vụ chung của ba bộ phận này là vạch ra lý thuyết về con đường cách mạng
Việt Nam đúng đắn nhằm mục đích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và tiến
tới giải phóng con người và loài người.
Ngày
5/6/2011 là kỷ niệm 100 năm ngày HCM bắt đầu cuộc hành trình cứu nước. Cuộc
hành trình ấy đã mang về cho dân tộc Việt Nam một quá khứ kiêu hãnh, tự hào; một
hiện tại đầy sức sống; một tương lai phồn vinh và mãi mãi thấm sâu trong tâm thức
của mỗi người Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên thế giới một HCM vĩ đại, một tư
tưởng tưởng HCM bất diệt, không khép kín, không tự đủ mà luôn phát triển cùng với
sự phát triển của dân tộc và thế giới. Tư tưởng ấy “sẽ mãi mãi gắn bó với những
hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân loại”.
Vấn đề 2: Cơ sở hình thành và quá trình xác lập mô hình Nhà
nước mới ở Việt Nam trong tư tưởng HCM về Nhà nước.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng HCM về Nhà nước mới Việt Nam:
1.1 Cơ sở thực tiễn và sự khảo nghiệm:
Từ thực tiễn
hình thái nhà nước Việt Nam đương thời: nhà nước phong kiến Việt Nam và nhà nước
tư sản (dưới sự cai trị của chính quyền tư sản – thực dân Pháp) đã gây cho nhân
dân một cuộc sống cơ cực về kinh tế, bị chà đạp về nhân phẩm,…HCM đi đến khẳng
định: nhà nước Việt Nam sau khi giành được độc lập không mang bản chất phong kiến
và tư sản.
Tiếp xúc, tìm hiểu, nghiên cứu các cuộc
cách mạng điển hình trên thế giới; cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng tư sản Pháp
năm 1789 và các kiểu, các hình thức nhà nước mà những cuộc cách mạng này xây dựng
sau khi cách mạng thành công, HCM đi đến kết luận: đó là những cuộc cách mạng
chưa đến nơi, chưa triệt để.
Nghiên cứu
cách mạng XHCN Tháng Mười Nga năm 1917, Người nhận định đây là cuộc cách mạng
triệt để và đến nơi, đưa lại quyền lợi thật sự cho nhân dân lao động. HCM kết
luận: cách mạng Việt Nam nên theo Cách mạng Tháng Mười Nga, đó là cuộc cách mạng
xác lập hình thái nhà nước trong đó quyền lực thuộc về số đông người. Chính mô
hình nhà nước đó đã gợi ý cho HCM về một kiểu nhà nước sẽ được xây dựng ở Việt
Nam trong tương lai.
1.2 Cơ sở lý luận:
Văn hóa
chính trị của Việt Nam trong lịch sử: Các bộ sử lớn của dân tộc như Đại Việt sử
ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí; các Bộ luật nổi tiếng như Hình
Thư (đời Lý), Quốc triều hình luật (đời Lê) cùng với tư tưởng “nước lấy dân làm
gốc” tiếp thu được ở Nho giáo…là cơ sở văn hóa chính trị đầu tiên của HCM trên
con đường tìm kiếm một mô hình nhà nước tiến bộ cho đất nước sau khi giành được
độc lập.
Các gí trị
văn hóa chính trị của loài người: HCM kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển
các tinh hoa văn hóa phương Đông trong tổ chức, quản lý xã hội, đặc biệt là triết
lý “đức trị”, “nhân trị”, “chính sách định phận” của Nho gia (Khổng Tử); thuyết
“kiêm ái” và các nguyên tắc thượng đồng, thượng hiền, phi công của trường phái
Mặc gia; tư tưởng “pháp trị” của trường phái Pháp gia (Hàn Phi Tử: thưởng thật
hậu và phạt thật nặng; sức mạnh của dân, của đất nước và xu thế lịch sử),… cũng
như các quan niệm về chính trị, xã hội của các đại biểu phương Đông khác; tiếp
thu, chọn lọc, phê phán tinh hoa văn hóa tư tưởng trong vấn đề tổ chức, hoạt động
của nhà nước của các đại biểu tiêu biểu ở phương Tây như: Đêmôcrít (cái nghèo
trong chế độ dân chủ cũng quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ
y như là tự do quý hơn nô lệ; nhà nước là trụ cột của xã hội; cần phải xử lý
nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức); Platon (tiếp
thu những giá trị hợp lý trong quan niệm của Platon về nhà nước lý tưởng); tiếp
thu tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sang Pháp như: J.J.Rouseau (Khế ước xã hội),
C.L.Montesquieu (Tinh thần pháp luật),…nhất là quan niệm về bản chất dân chủ,
nhân đạo của nhà nước, quan niệm về xây dựng nhà nước pháp quyền…và sau khi đã
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, HCM quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết về
nhà nước và nhà nước vô sản trong xây dựng nhà nước Việt Nam mới.
2. HCM với việc xác lập nhà nước kiể mới ở Việt Nam:
Lúc đầu
HCM đưa ra mô hình nhà nước công nông binh theo mô hình Xôviết, ý tưởng này được
thể hiện trong Chánh cương vắn tắt năm 1930: “dựng ra chính phủ công nông
binh”. Từ thực tiễn cách mạng cho thấy hình thức chính quyền Xôviết chưa thật
phù hợp với điều kiện xã hội Việt Nam. Về sau, Người chủ trương xây dựng mô
hình nhà nước dân chủ cộng hòa như Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ
tám (5/1941) chủ trương: “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền
Xôviết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng
hòa”.
Trong Thư
gửi đồng bào toàn quốc, tháng 10/1944, HCM viết: “Chúng ta trước hết phải có một
cái cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất trí của toàn
thể quân dân ta. Mà cơ cấu ấy thì phải do một cuộc Toàn quốc đại biểu Đại hội gồm
tất cả các đảng phái cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một
cơ cấu như thế mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo công việc cứu quốc,
kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang”. Đó là một bước chuyển sáng
suốt của HCM, phản ánh được nét đặc thù của thực tiễn dân tộc phù hợp với sự
chuyển hướng chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 thành công, với bản Tuyên ngôn độc lập, HCM đã khai sinh ra
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ tiến bộ đầu tiên ở Đông Nam
Châu Á, đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước Việt Nam mới trong lịch sử
dân tộc: Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính
dân tộc sâu sắc, là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, một nhà
nước thể hiện quyền lực của nhân dân lao động.
Vấn đề 5: Mối quan hệ giữa các đức tính cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư trong tư tưởng HCM về đạo đức.
“Nói tới một
người cả cuộc đời mình để lại ân tình sâu nặng trong nhân dân thì không có ai
ngoài chủ tịch HCM”, Người “là chân lý của lịch sử”, là “một nhà lý luận vĩ đại”,
“là chiến sĩ đầu tiên của thế giới thứ ba, của các dân tộc nghèo đói thèm khát
một cuộc sống cho ra người…Cụ dạy cuộc chiến đấu vì nhân phẩm và tự do phải được
đặt lên trên mọi cuộc chiến đấu khác. Cụ đã bên vực những ai yếu hèn và mang lại
nhân phẩm cho những người nghèo khổ”. Người “đã sống một cuộc đời với những tầm
cỡ phi thường và đã có những cống hiến sâu sắc cho sự nghiệp giải phóng loài
người. Chính lẽ đó đã làm cho tiểu sử của Người trở thành bài ca cho niềm vinh
quang đối với triển vọng và khả năng của con người…” (Báo Thế giới, ngày
20/9/1969).
Chủ tịch
HCM là lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, sáng lập Đảng
Mác – Lênin ở Việt Nam, sáng lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập
lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(nay là nước CHXHXNVN). Người luôn luôn gắn cách mạng Việt Nam với cuộc đấu
trang chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Người là tấm gương đạo đức cao cả, cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư, vô cùng khiêm tốn, giản dị.
Tư tưởng
và những tấm gương đạo đức là một trong những “tài sản tinh thần vô giá” mà Người
để lại cho Đảng và dân tộc ta. Trong đó phải kể đến chuẩn mực đạo đức cần,
liêm, chính, chí công vô tư mà sinh thời Người đã giành sự quan tâm đặc biệt để
giáo dục và định hướng chuẩn mực đạo đức cho thanh niên Việt Nam, những người
chủ tương lai cho đất nước.
Trong “tài
sản tinh thần vô giá” HCM để lại cho Đảng, dân tộc Việt Nam, có nhiều tác phẩm,
bài viết, bài nói chuyện Người đề cập trực tiếp đến vần đề đạo đức, tiêu biểu
như: Tác phẩm “Đường cách mệnh”, năm 1927; tác phẩm “Đời sống mới”, ngày
20/3/1947, ký tên Tân Sinh; tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10/1947, ký
tên X.Y.Z; tác phẩm “Cần kiệm liêm chính”, viết xong khoảng tháng 6/1949, ký
tên Lê Quyết Thắng; tác phẩm “đạo đức công dân”, ngày 15/1/1955; tác phẩm “Đạo
đức cách mệnh”, tháng 12/1958; tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch
chủ nghĩa cá nhân”, ngày 3/2/1969…Những tác phẩm trên đều có những giá trị lịch
sử và những ý nghĩa hiện thực to lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta. Trong đó, phải
kể đến tác phẩm “Đời sống mới”, HCM viết ngày 20/3/1947, với bút danh Tân Sinh
– Tác phẩm mà sinh thời Người mong muốn rằng “đồng bào ta mỗi người có một cuốn”,
“để xem, để hiểu, để thực hành đời sống mới”.
Giá trị to
lớn và tấm gương đạo đức HCM đối với Đảng và dân tộc đã được Đảng ta xác định từ
rất sớm. Tại đại hội lần thư II của Đảng (năm 1951) đã ghi nhận đạo đức, phong
HCM như một giá trị văn hóa, ngọn cờ tập hợp quần chúng và động lực tinh thần
to lớn của Đảng và dân tộc ta. Đến đại hội VII(1991), Đảng xác định, cùng với
chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng HCM trở thành nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho
hành động của Đảng và Cách mệnh Việt Nam. Đến đại hội VII, Đảng đưa ra một quan
niệm về tư tưởng HCM, trong đó chỉ rõ tư tưởng “về đạo đức cách mạng, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư” là một nội dung của tư tưởng HCM về những vấn đề
cơ bản của Cách mạng Việt Nam. Ngày 27/3/2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ
thị số 23-CT/TƯ về “Đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng HCM
trong giai đoạn mới”, trong đó đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức cách mạng.
Ngày
7/11/2006, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06/ CT/TƯ về tổ chức cuộc vận động “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức HCM”. Ngày 2/2/2007, cuộc vận động này được phát
động.
Những điều
kể trên thể hiện ngày càng đầy đủ nhận thức của Đảng về giá trị lịch sử và hiện
tại của tư tưởng và tấm gương đạo đức HCM đối với xây dựng đạo đức cách mạng của
cán bộ, đảng viên nói riêng, với nền tảng đạo đức mới của dân tộc Việt Nam nói
chung. Do đó, việc đẩy mạnh giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng “cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên là một yêu cầu
vừa mang tính cơ bản, lâu dài, vừa là đòi hỏi cấp bách, trước mắt của sự nghiệp
đổi mới đất nước ta hiện nay như tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã
nhấn mạnh: “Đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán
bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết
lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mang. Cán bộ, đảng viên phải nâng cao tinh
thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, thật sự tiên phong, gương mẫu, đi đầu
trong mọi công việc; xử lý hài hòa các lợi ích, đặt lợi ích của Tổ uốc, của
nhân dân lên trên hết.
Theo Người,
đạo đức cách mạng không phải tự nhiên mà có, mà phải qua giáo dục, rèn luyện bền
bỉ mới có được. Có thể nói, tư tưởng đạo đức cách mạng HCM là một bước phát triển
mới, một cống hiến đặc sắc và sự phát triển của đạo đức học Mác – Lênin và nền
đạo đức mới của xã hội ta. Tư tưởng đạo đức HCM hoan toàn đối lập với đạo đức
cũ của giai cấp thống trị, áp bức, bóc lột nhân dân, đồng thời nó cũng hoàn
toàn xa lạ với đạo đức tôn giáo, “thứ đạo đức khuyên con người ta sống khắc khổ,
cam chịu, thụ động chấp nhận số phận để được đền bù hư ảo bằng một cuộc sống tốt
đẹp hơn ở thiên đường hay ở chốn bồng lai, tiên cảnh”.
Theo Người:
“Trời có bốn
mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn
phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn
đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một
mùa, thì không thành trời.
Thiếu một
phương, thì không thành đất.
Thiếu một
đức, thì không thành người”.
Một ngày
sau khi nước nhà giành được độc lập (ngày 3/9/1945), Chủ tịch HCM chủ tọa phiên
tòa đầu tiên của Hội đồng Chính phủ. Người trình bày sáu nhiệm vụ cấp bách của
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có vấn đề thứ tư cần phải giải quyết
lúc bấy giờ là “Chế độ thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó
đã dùng mọi thủ đoạn hòng hủ hóa dân tộc ta bằng những thói xấu, lười biếng,
gian giảo, tham ô và những thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải
giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên
một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt
Nam độc lập”. Để làm được những điều đó, Người đề nghị “mở một chiến dịch giáo
dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện : CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH.
Để giáo dục
đạo đức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dân ta, Chủ tịch HCM đã có nhiều tác
phẩm viết về vấn đề này, Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”,
chương đầu tiên của cuốn sách là tư cách một người cách mệnh và tiêu chuẩn đầu
tiên trong tư cách một người cách mệnh chính là: cần, kiệm. Sau này là tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” (10/1947), “Thựa hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí,
chống bệnh quan liêu” (1952). “Đạo đức cách mạng” (12/1958) và các bài báo như
“Chớ kêu ngạo, phải khiêm tốn”, “Cần kiệm liêm chính”, “Cần tẩy sạch bệnh quan
liêu mệnh lệnh”, “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”…Trước
lúc đi xa, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta,
Người nhắc “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự
thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư…” và
“Sau khi tôi qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí
thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
Về cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư, Chủ tịch HCM nói một cách ngắn gọn, giản dị, cụ thể,
dễ hiểu và dễ làm theo.
Theo HCM,
“Cần là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dèo dai,…Tục ngữ ta có câu: nước chảy
mãi, đá cũng mòn, kiến tha lâu cũng đầy tổ…Dao siêng mài thì sắc bén. Ruộng
siêng làm cỏ thì lúc tốt…Mọi người đều phải cần, cả nước đều phải cần”. NGười
cũng lưu ý rằng: “Nếu làm cố chết cố sống trong một ngày, một tuần hay một
tháng, đến nỗi sinh ốm đau, phải bỏ việc, như vậy không phải là cần”.
“Kiệm là
tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi…”, “tiết kiệm không phải
là bủn xỉn…Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, dại dột chứ không phải là
KIỆM”, “Cần với Kiệm phải đi đôi với nhau như hai bàn chân của con người, Cần
mà không Kiệm thì “làm chừng nào xào chừng ấy”, cũng như một cái thùng không
đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn toàn… Kiệm mà
không cần,…như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào lâu
ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần cho đến khi khô kiệt”.
“Liêm là
trong sạch, không tham lam…ngày xưa dưới chế độ phong kiến, những người làm
quan không đục khoét dân thì gọi là liêm. Chữ Liêm ấy chỉ có nghĩa hẹp…ngày
nay, nước ta là dân chủ cộng hòa, chữ Liêm có nghĩa rộng hơn là mọi người đều
phải Liêm… Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với
chữ Cần. Có Kiệm mới Liêm được, vì xa xỉ mà sinh tham lam”. Phải trong sạch,
không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm
là:…cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng.
Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải,
mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham úy lạo. Cụ Khổng nói: người mà
không liêm không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.
“Chính,
nghĩa là không tả, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn…Cần, Kiệm, Liêm là gốc rễ của Chính.
Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có nhành, lá, hoa, quả mới là cây hoàn
toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới là hoàn toàn.
Chính, đối
với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm
mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với người, không nịnh nót người
trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết,
không dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc
gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gằng làm việc tốt cho
dân cho nước.
Cần, kiệm,
liêm, chính trước hết là thước đo trình độ “người”, chất người của một con người,
là thước đo đạo đức công dân. Điều đó giống như bốn mùa của trời, bốn phương của
đất, “thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất,
thiếu một đức thì không thành người”. Cần, kiệm, liêm, chính còn được hiểu là
thước đo sự giàu có về vật chất, văn minh, tiến bộ của một dân tộc. Bởi vì, “một
dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh
thần, một dân tộc văn minh, tiến bộ”. Vì vậy, cần, kiệm, liêm, chính là “nền tảng
của đời sống mới, của Thu đua ái quốc”; là cái cần thiết để “làm việc, làm người,
làm cán bộ, phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Với ý
nghĩa sâu xa, rộng lớn như vậy, “cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của xã hội
hưng thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của xã hội suy vong” như cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng nhận xét.
Chí công vô tư, là làm bất cứ việc gì
cũng đừng nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lợi
ích của cách mạng. Thực hành chí công vô tư là quét sạch chủ nghĩa cá nhân,
nâng cao đạo đức cách mạng. “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Chủ
nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm,
còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm. HCM viết: “ Một dân tộc, một đảng và mỗi
con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn
được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào
chủ nghĩa cá nhân”. HCM cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.
Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi
dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để vững vàng
qua mọi thử thách: “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay,
uy vũ không thể khuất phục”.
Ý nghĩa
sâu xa của cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là ở chỗ, xét cho cùng, đạo đức
là cái quý nhất, là linh hồn của một con người, một xã hội, một chế độ và một nền
văn minh. Đạo đức cách mạng là tiền đề tiên quyết, là giá trị thuộc về nhân
cách mỗi con người, là sức mạnh để người cách mạng thực hiện lý tưởng, mục tiêu
của mình.
Để quyết
tâm xây dựng đất nước, hướng tới một tương lai tươi sáng, phồn vinh trong thế kỷ
mới, mỗi người cần phải thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch: “Một hột gạo, một đồng
tiền là mồ hôi, nước mắt của đồng bào. Vì vậy, ta phải ra sức tiết kiệm. Hoang
phí là một tội ác. Có tiết kiệm, không hoang phí xa xỉ thì mới giữ được liêm
khiết, trong sạch. Nếu hoang phí xa xỉ, thì ắt phải tìm cách xoay tiền, do đó
mà sinh ra hủ bại, nhũng lạm, giả dối. Thậm chí làm chợ đen chợ đỏ, thụt két,
buôn lậu. Có cần mới kiệm. Có cần, kiệm mới liêm. Có cần, kiệm, liêm mới
chính”.
Lời người
dạy cách đây hơn 60 năm về trước đã tạo nên động lực thúc đẩy kháng chiến thắng
lợi, kiến quốc thành công và vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây dựng nếp sống
văn minh ở nơi công đường và cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn
dân cư từ thành thị đến nông thôn, từ đồng bằng lên miền núi trong phạm vi cả
nước hiện nay và tương lai. Những lời dạy ấy vẫn còn nguyên tính thời sự, khi
nước ta đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), khi nước ta đang trên bước
đường hội nhập và phát triển, khi cả thế giới đang chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc
gián tiếp của cơn bão suy thoái kinh tế đang diễn ra, hơn lúc nào hết, chúng ta
không chỉ dừng lại ở việc nhen lửa mà cần phải tiếp thêm lửa cho công cuộc xây
dựng đời sống mới – văn hóa đời sống bằng những hành động thiết thực, cụ thể,
góp phần làm tăng nội lực, giữ vững và tự hào Việt Nam trong nhận thức của bạn
bè thế giới. Thực hành tốt những lời dạy của HCM về cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư là chúng ta đã góp phần làm giàu cho đất nước, làm tăng lòng tin của
nhân dân vào Đảng và chính quyền. Như vậy là chúng ta cũng đã góp phần thực hiện
tốt cuộc vận động: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM với chủ đề năm
2009 là “Nâng cao ý thức trách nhiệm, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ
nhân dân”.
Vấn đề 8: Quan điểm: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn
của đất nước” trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ gửi Quốc tế cộng sản,
năm 1924 của HCM.
Năm 1969,
50 ngày trước lúc đi xa, khi trả lời nữ phóng viên báo Granma (CuBa) – đồng chí
Mácta Rôhát, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Có thể nói, động
lực làm nên chí khí và sự nghiệp HCM chính là điều mà Người gọi là chủ nghĩa
dân tộc.
Năm 1924,
Người viết: “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”, chính chủ
nghĩa dân tộc đã luôn thúc dục người dân Việt Nam từ nông dân nghèo đói đến địa
chủ, từ công nhân đến tư sản dân tộc, từ học sinh nhân sĩ đến vua quan yêu nước,…đứng
lên đấu tranh chống thực dân Pháp để giành độc lập cho dân tộc. Tiếp đó, Nguyễn
Ái Quốc có những phân tích sâu sắc về sự biến đổi và phát triển của chủ nghĩa
dân tộc dưới tác động của chiến tranh như sau:
* Chủ
nghĩa dân tộc đã hiện đại hóa và người chỉ đạo chủ nghĩa dân tộc chính là giới
thanh niên An Nam.
* Chủ
nghĩa dân tộc ngày càng ăn sâu vào quần chúng.
* Trong chủ
nghĩa dân tộc có cả lòng căm ghét bọn xâm lược Trung Quốc và người Ấn Độ sinh
cơ lập nghiệp trên đất nước này.
* Chủ
nghĩa dân tộc có xu hướng hợp pháp hóa các hình thức biểu hiện và yêu sách của
nó; và lớp thanh niên ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn, có ý nghĩa hơn những
lớp người già đi trước.
Trong khoảng hơn một trang in (Tiếng
Việt), đã có ít nhất 16 lần Nguyễn Ái Quốc dùng tới thuật ngữ “chủ nghĩa dân tộc”.
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân tộc trong phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh và phương
hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ của Nguyễn Ái Quốc
kiến nghị Quốc tế cộng sản “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế
cộng sản…Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi…nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy
sẽ biến thành chủ nghĩa Quốc tế.
Người còn
cho rằng, Quốc tế cộng sản, những người cộng sản “sẽ không thể làm gì được cho
người An Nam, nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống
xã hỗi của họ”.
Ở Việt Nam khi đó, một phương hướng, nhiệm vụ
như vậy là đúng đắn và phù hợp với lo6gic. Bởi khi đó, ở phương Đông, Đông
Dương và cụ thể là, ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra như ở phương
Tây”, người lao động, nhân dân bị áp bức tuyệt đại đa số là nông dân; trí thức
có vai trò đặc biệt quan trọng, ý thức dân tộc của họ rõ ràng mạnh hơn ý thức
giai cấp (vì ngay giai cấp công nhân Việt Nam trước năm 1924 cũng vẫn còn là
giai cấp “tự phát”). Cho nên, trong khi tuyên truyền giác ngộ ý thức giai cấp của
họ, thì đồng thời cũng phải “phát động chủ nghĩa dân tộc” của họ, bởi vấn đề độc
lập dân tộc là vấn đề chủ yếu, nổi lên hàng đầu ở một nước thuộc địa, nửa phong
kiến như Việt Nam thời thuộc Pháp. Chủ nghĩa dân tộc được phát động như vậy sẽ
là một trong những tiền đề, điều kiện vô cùng quan trọng cho một cuộc khởi
nghĩa vũ trang thắng lợi ở Đông Dương. Trong phần kết luận của mình, Báo cáo về
Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đề cập tới “khả năng khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương”. Theo Nguyễn Ái Quốc, yếu tố đầu tiên quyết định thắng lợi của cuộc khởi
nghĩa đó là nó phải được sự ủng hộ và tham gia của toàn thể nhân dân. Người việt:
“Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương: 1- Phải có tính
chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn. Cuộc khởi
nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chùng, nổ ra trong thành phố, theo kiểm các
cuộc cách mạng ở Châu Âu, chứ không phải nổ ra đột ngột ở biên giới Trung Quốc,
thep phương pháp của những nhà cách mạng trước đây…”.
Như vậy, vấn đề “chủ nghĩa dân tộc” trong tư
tưởng HCM là khá rõ ràng. Đối với Nguyễn Ái Quốc – HCM, chủ nghĩa dân tộc chân
chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau, “chủ nghĩa dân tộc theo
HCM, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản hay Quốc
tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc
chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác – Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân
tộc với giai cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và
giải phóng con người”.
Như vậy,
khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận
đấu tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không
cho đó là động lực duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa,
mất nước với nhiệm vụ cứu nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì
“chủ nghĩa dân tộc là một động lực của đất nước”. Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã hun đúc qua hàng nghìn
năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống
ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước thuộc địa nửa phong kiến,
nông nghiệp lạc hậu, sự phân hóa giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa triệt để và sâu
sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc mang đấu tranh chống
chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại,
như Ph.Ăngghen đã từng nói: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong phong trào
công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”.
Tóm lại, về
luận điểm này, HCM đã bổ sung vào học thuyết Mác. Người nói: Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử nhưng đó là lịch sử
Châu Âu mà lịch sử Châu Âu chưa phải là toàn thể loài người. Vì vậy, mà dù sao
cũng không cấm bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa vào đó những
tư liệu mà Mác ở thời đại mình chưa có được và theo HCM, tư liệu cần bồ sung đó
chính là chủ nghĩa dân tộc phương Đông. Như lập luận của Charles Fourniau – nhà
sử học người Pháp khi nghiên cứu về chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng HCM: “vấn
đề duy nhất đặt ra là cần hiểu rõ tại sao và thế nào mà một người dân thuộc địa
tất nhiên phải đi theo chủ nghĩa dân tộc? và tại sao lại tìm được chủ nghĩa cộng
sản như là con đường duy nhất để thực hiện độc lập cho Tổ quốc mình?”. Ông đã tự
trả lời rằng: “Việc áp dụng một cách độc đáo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể
của Việt Nam, chắc chắn đó là một trong những nguyên nhân thắng lợi của Việt
Nam, thể hiện một cách chính xác sự thống nhất đã đạt được của truyền thống dân
tộc và của cuộc cách mạng sâu xa mà việc áp dụng chủ nghĩa Mác đòi hỏi, cũng là
sự thống nhất một cuộc cách mạng dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế, đó là
những dấu ấn riêng của Chủ tịch HCM trên phong trào cách mạng Việt Nam”. Những
ý kiến của nhà sử học nước ngoài này đã góp phần làm sáng tỏ quan điểm của HCM
về chủ nghĩa dân tộc.
Vấn đề 9: Tư tưởng HCM về con người và chiến lược
trồng người
1. Quan niệm của
HCM về con gnười:
a. Con người
được nhìn nhận như một chỉnh thể:
- HCM xem
xét con người như 1 chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các
hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướn vươn lên cái Chân thiện
mỹ,mặc dù “ có thế này, thế khác”.
HCM có
cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng
trong quan hệ xã hội( quan hệ dân tộc, giai cấp, tầng lướp, đồng chí,
đồng bào..) đa dạng trong tính
cách, phẩm chất, khả năng, cùng như năm ngón tay, có ngón ngắn ngón
dài…
- HCM xem
xét con ngưới trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác;
hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ…
b. Con người
cụ thể, lịch sử:
HCM cũng
dùng khái niệm “ con người” theo nghĩa rộng trong một số tường hợp(
phẩm giá con người, giải phóng con người, người ta..) nhưng đặt tỏng
bối cảnh lịch sử và một tư duy chung, còn phần lớn, Người xem xét
con người trong mối quan hệ XH, quan hê giai cấp, theo giới tính( thanh
niên, phụ nữ), theo lứa tuổi( phụ lão, nhi đồng), nghề nghiệp( công
nhân, nông dân, trí thức..) trong khối thống nhất của cộng đồng dân
tộc( sỹ, nông, công, thương, binh) và quan hệ quốc tế( bầu bạn năm
châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản). Đó là con người
hiện thực, cụ thể, khách quan.
c. Bản người
mang tính xã hội:
- Để sinh tồn,
con người phải lao dộng sản xuất. Trong quá trình ao động sản xuất,
con người dần nhân thức được các quy luật của tự nhiên, của XH hiểu
biết về mình và hiểu biết lẫn nhau.. xác lập mối quan hệ giữa
người với người.
- Con người là sản phẩm của XH.
Trong quan niệm của HCM con người là tổng hop các quan hệ XH từ rộng
tới hẹp, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em, họ hàng, bầu bạn;
đồng bào; mọi người..
2. Quan niệm của
HCM về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”
a. Quan niệm
của HCM về vai trò của con người.
- Một là
con ngừơi là vốn quý nhất, nhân tố quyết định sự thành công của sự
nghiệp cách mạng
Theo HCM
lịch sử là do quần chúng nhân dân tạo ra, chứ không phải vài ba cá
nhân anh hùng nào đó , vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng
dân, vì “ có dân là có tất cả”. Trong bài nói chuyện tại lớp huấn
luyện nghiên cức chính trị khóa II trường Đại học An ninh Nhân dân, ngyà 18/12/1956, HCM nói “Trong bầu
trời không gì quý bằng nhân dân. Thế giới không gì quý bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân”; “ Trong XH không gì có gì tót đẹp, vẻ
vang bằng phuc vụ cho lợi ích của nhân dân” cũng như trong bài 6 điều
nên và 6 điều không nên làm, ngày 5/4/1948, HCM viết.” Gốc có vừng cây
mới bền, xây lấu thắng lựoi trên nền nhân dân”.
Từ đó ta
thấy nổi lên ở HCM một tấm lòng yeu thương vô hạn đối với con người,
một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá của con người, một
ý chí kiên cuòng đáu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất
công, đói nghèo lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ
bản của chủ nghĩa nhân văn HCM. Người từng nói: “ Nghĩ cho cùng, mọi
vấn đề.. là vấn đè ở đời và làm người ở đời và làm người pahỉ
là yêu nước thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, áp bức
- Hai là, con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng
Để phát
huy vai trò của con người, HCM đã đề cập đến một hệ thống nội dung
và biện pháp( vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ
thúc đẩy tính tích cực hoạt động của con người, đồng thời cũng chỉ
ra những nội dung và biện pháp làm triệt tiêu các trở lực nhằm thúc
đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ
thống các đọng lực chính trị, tinh thần, HCM chú trọng trươc hết đến
giáo dục chủ nghĩa yêu nước, đạo đức cách mạng.. đồng thời khồn coi
nhẹ vai trò tác động của các yếu tố tinh thần như văn hóa, khoa học,
pháp luật. Đặc biệt Người chú trọng phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. “ coi thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết
mọi khó khăn” như trong bài “ cái chìa khóa vạn năng” ngày 25/3/1967
Người đã viết.
b. Tư tưởng HCM
về chiến lược “trồng người”
- Trồng
người là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của CM
Trên cơ
sở khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của CM,
HCM rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo, rèn luyện con
người. Người nói đến “lợi ích trăm năm”vừa là mục tiêu xây dựng CNXH
là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bả lâu dài, nhưng cũng rất cấp bách. Nó
liên quan đén nhiệm vụ” trước hết cần có những con người XHCN” và “
trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm
quan trọng có tính quyết đoán của nhân tố con người.
Như vậy,
con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó
vừa nằm trong chiến lược kinh tế- xã hội của đất nước với nghĩa
rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục và đào tạo theo nghĩa hẹp.
- “Muốn xây
dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”
+ Con người XHCN đương nhiên phải do
XHCN tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên XHCN thì “ trước hết
cần có những con người XHCN”. Điều này được hiểu là ngay từ đầu
phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản,
tiêu biểu cho con người XHCN, làm gương lôi cuốn XH. Công việc này là
một qua trình lâu dài, không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về
trách nhiệm của Đảng và NN, gia đình cá nhân mỗi người.
+ Mỗi
bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng XHCN .
Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “ Xây dựng CNXH” và “ con người
XHCN”.
+ Quan
niệm của Hồ Chí Minh về con người mới xã hội chủ nghĩa có 2 mặt
gắn bó chặt chẽ với nhau.
● Một
là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống( Việt
Nam và phương Đông).
● Hai
là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng XHCN, có đạo
đức XHCN, có tác phong XHCN; có lòng nhân ái, vị tha…
- Chiến
lược “ trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội
Để thực
hiện chiến lược “trồng người”, cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo
dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bới vì, giáo dục
tốt tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Ngược
lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thanh niên.
Nội dung
và phương pháp giáo dục phải toàn diện về cả đức, trí, thể, mỹ,
phải đặt đạo đức và lý tưởng cách mạng, lối sống XHCN lên hàng
đầu.Hai mặt đức tài thống nhất vói nhau, không tách rời nhau, trong
đó đức là nền gốc, là nền tảng cho sự phát triển. Phải kết hợp
giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm, có như vậy mới
có thể “học để làm người”.
“Trồng
người” là công việc” trăm năm”, không thể nóng vội “ một sớm một
chiều”, không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó. Nhận
thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ
trong suốt cuộc đời môic con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên
CNXH. HCM cho rằng “việc học không bao giờ cùng,còn sống còn phải
học”.
Vấn đề 10: Quan điểm “Lý luận cốt để áp dụng vào
hoạt động thực tiễn, lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận
suông” của HCM.
Một trong những
di sản mà HCM để lại cho chúng ta là tư tưởng về sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngứa. Khác
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.
- HCM dùng nhiều cách diễn đạt khác
nhau: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “ Lý luận kết hợp với thực
hành”… Dù nói “ đi đôi”, “ gắn liền”, “kết hợp”… nhưng điều cốt lõi
nhất mà HCM muốn nhấn mạnh đó là: “Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của CN Mác - Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thực hành là mù quáng. Lý luận mà
không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
- Quan điểm: “ Lý
luận cốt để áp dụng vào thực tế, lý luận mà không áp dụng vào
thực tế là lý luận suông” đề cập đến vai trò của lý luận đối với
thực tiễn trong mối quan hệ biện chứng của nó. Đế làm rõ quan điểm
này, cần tìm hiểu quan niệm của Người về “lý luận” và “thực tiễn”.
- Quan điểm về
“lý luận” và “thực tiễn” được thể hiện qua các tác phẩm của HCM
là:
+ Tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc” ( 10/1947), HCM
viết “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh kỹ lưỡng, rõ ràng, rồi
thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý
luận chân chính”.
+ Trong Diễn
văn khai mạc lóp học lý luận khóa I của trường Nguyễn Ái
Quốc(7/9/1957), HCM đã nêu rõ: “ Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và XH
tích trữ lại trong quá trình lịch sử”.
+ Còn “thực
tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sụ vật.
Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là
những vấn đề cách mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực té bao gồm rất
rộng. Nó bao gồm kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính
sách và đường lối của Đảng, kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến
các vấn đề trong nước và TG”.
+ Với quan
niệm về lý luận và thực tiễn như vậy, trong tác phẩm Sửa đổi lối
làm việc(10/1947), ký tên X.Y.Z, xuất bản năm 1948, quán triệt quan
điểm của CN Mác- Lênin, HCM khẳng định lý luận có vai trò to lớn đối
với thực tiễn, “lý luận như chim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng
ta trong kinh nghiệm thục tế”; “ không có lý luận thì lúng túng như
nhắm mắt mà đi”; “ Làm mà khồng có lý luận thì không khác gì đi mò
trong đêm tối, vừa chậm chạp, vừa hay vấp váp”
- Tuy nhiên HCM
cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ
với kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc
bẹnh lý luận suông, tức bệnh giáo điều.
- Do đó khi vận
dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không
cũng mắc bệnh giáo điều. Như vậy lý luận chỉ có ý nghĩa đích thực
khi được vận dụng vào thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đường,
chỉ đạo thực tiễn, Đồng thời khi vận dụng lý luận vào thực tiễn
thì phải phù hợp với điều kiện thực tiễn. Rõ ràng thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn ở TT HCM phải được hiểu là, thực tiễn- lý
luận; lý luận- thực tiễn luôn hòa quyện thống nhất với nhau, đòi
hỏi nhau, cần đến nhau, tạo tiền đề cho nhau phát triển. Người viết “
Thực hành sinh ra hiểu biết, hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận
chỉ đạo thực hành” (19/7/1951).
- Đồng thời
người cũng chỉ rõ “ lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập
không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó trong lúc học tập lý
luận, chúng ta cần nhấn mạnh: Lý luận phải liên hệ với thực tế”.
Đặc biệt Người rất quan tâm đến việc vận dụng và học tập lý luận
của CN Mác- Lênin là “Phải học tinh thần của CN Mác- Lênin, lập tập
lập trường quan điểm của CN Mác- Lênin để áp dụng lập trường, phương
pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác
cách mạng của ta”.
- Tư tưởng HCM về
thống nhất giữa luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản để ngăn
ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều và có ý nghĩa hết
sức to lớn hiện nay, khi mà chúng ta đang tìm lời giải đáp cho vấn
đề thực tiễn đổi mới đặt ra. Bởi lẽ để tìm lời cho những vấn đề
đó chúng ta phải tìm cả trong CN Mác- Lênin, TT HCM cũng như trong
chính thực tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta. Nghĩa là phải bằng
phương pháp, quan điểm của CN mác- Lênin và TT HCM tổng kết những vấn
đề thực tiễn hôm nay 1 cách có lý luận.
Vấn đề 11: Quan
điểm: “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân,đồng thời là Đảng của
dân tộc, không thiên tư, thiên vị” của HCM
- Từ quy luật
hình thành và phát triển của Đảng, HCM đã đi đến luận điểm Đảng
cộng sản VN là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của
cả dân tộc VN. Đảng là đội tiền phong của đạo quân vô sản, Đảng tập
hợp vào hàng ngũ của mình những người “Tin theo Đảng cộng sản ư,
chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản…dám hy sinh, phục tùng Đảng
và đóng kinh phí, chiu phấn đấu trong một bộ phận của Đảng”.
- HCM là người
có công lớn đầu tiên đối với dân tộc ta, với Đảng ta là về mặt lý
luận đã sớm khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân VN và
sớm sáng lập và xây dựng một Đảng tiên phong của giai cấp công nhân.
- Cần nhấn mạnh
rằng, phát hiện sứ mệnh lích sử của
giai cấp công nhân thế giới là công lao của Mác- Ăngghen. Nhưng
qua những cuộc tranh luận lý luận về vấn đề đó trong PTCM và PTCN từ
sau khi Các Mác và Ăngghen qua đời và xem xét vaán ddề đó vào những
điều kiện cụ thể những năm hai mươi của thế kỷ 20 mới thấy đâỳ đủ
giá trị của lý luận và thực tiễn mà HCM đã cống hiến cho cách
mạng VN. Sau này khi đánh giá về giai cấp công nhân VN, HCM khẳng định
“ Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, uôn luôn gan góc đương
đầu với bọn đế quốc thực dân”. Với lý luận cách mạng tiên phong và
kinh nghiêm của phong trào công nhân quốc tế, giai cấp công nhân tỏ ra
mình là người xứng đấng nhất và tin cậy nhất của nhân dân VN. Như
khẳng định của Người năm 1923, tại Hội nghị Quốc tế nông dân: “ Trong
thời đại hiện nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sừ mệnh lích sử
là lành đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh
với giai cấp nông dân”.
- Trong quá trình
chuẩn bị thành lập Đảng và từ khi Đảng ra đòi cho đến khi người đi
xa, HCM luôn luôn làm cho toàn Đảng quán triệt: Đảng CSVN là Đảng của
giai cấp công nhân. Đảng phái giữ vững và tăng cường bản chất của
giai cấp công nhân của Đảng. Lịch sử dân tộc ta, trước HCM đã có
nhiều nhà yêu nước nhiêt huyết nhưng đều không cứu được nước, không
giành được độc lập dân tộc. Khác vói các nhà yêu nước đương thời.
HCM đã sớm ý thức được sứ mệnh của giai cấp công nhân mà đội tiên
phong là Đảng cộng sản. Người đã sáng lập ra Đảng cộng sản, giáo
dục, rèn luyện Đảng thành một Macxít, Lêninnit chân chính, lãnh đạo nhân
dân ta vượt qua nhiều thử thách, đưa cách mạng VN đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác.
- Tư tưởng HCM về
Đảng trong các tác phẩm:
+ Tác phẩm “
Đường cách mệnh” năm 1927, Người đã chỉ rõ “ Đảng muốn vững thì
phải lấy chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải theo chủ nghĩa ấy.Đảng mà không có chủ nghĩa cũng giống như
người mà không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính, chắc chắn
nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”. Trước khi thành lập Đảng,
Người đã đề ra chủ trương “ Vô sản hóa”, đưa cán bộ Đảng viên không
xuất than từ công nhân vào làm việc ở các nhà máy, hầm mỏ để tuyên
truyền chủ nghĩa Mác –Lênin vào phong trào công nhân, đồng thời tụ
rèn luyện mình trở thành người vô sản và thành người cộng sản. “ Vô
sản hóa” là một yếu tố đầu tiên quan trọng tạo điều kiện cho đảng
viên thực sự giác ngộ, trung thành với chủ nghĩa MácLênin, giữ vững
được bản chất giai cấp công nhân của Đảng”.
+ Trong “ Chánh
cương ván tắt” được thông tại Hội nghị thành lập của Đảng cộng sản
VN ngày 3/2/1930, Người đã khẳng định “ Đảng là đội viên tiên phong
của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được điạ bộ phận giai cấp
mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng, Đảng phải
thu phục cho được đại đa số dân cầy và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo, phải hết sức lãnh đạo cho dân cày nghèo làm thổ địa cách
mạng đánh trúng bọn đại địa chủ phong kiến ”.
+ Xuất phát
từ đặc điểm của giai cấp công nhân VN: Giai cấp công nhân, nông dân và
nhân dân lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp công nhân
VN phần lớn xuất thân từ giai cấp công nhân, cả 2 đều có mục tiêu là
giải phóng dân tộc.
Đến năm
1951, trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biẻu lần thứ II của
Đảng( khi Đảng ra công khai và đổi tên thành Đảng Lao đông Việt Nam),
Người khẳng định : “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động là Đảng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên nó phải là Đảng của ả
dân tộc VN”. Năm 1961, HCM tiếp tục khẳng định: “ Đảng ta là Đảng của
giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên
vị.”
- Đảng mang bản chất giai cấp công nhân
không chỉ thể hiện ở sổ lượng đảng viên xuất than từ giai cápcông
nhân mà còn ở nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác Lênin, ở
mục tiêu và đường lối của Đăng là độc lập dân tộc gắn iền với chủ
nghĩa XH vì giải phóng đan tộc giả phóng giai cấp, giải phóng con
người, ở vấn đè Đảng tuân thủ nguyên tắc của Đảng kiểu mới của
Lênin. Đảng kết hợp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nông dân,
trí thức và ccá thành phần khác mà họ đã được rèn luyện, thử
thách, giác ngộ về Đảng và tự nguyện phấn đấu trong hàng ngũ của
Đảng. Đảng đạc biệt chú ý, giáo dục đảng viên, giác ngộ giai cấp
và dân tộc, nâng cao hiểu biết chủ nghĩa Mác- Lênin. Dảng ta là sụe thống nhaát giữa
tính giai cấp và tính dân tộc, lợi ích của giai cấp gắn liền với
lợi ích của dân tộc, “ nhân dân và cả dân tôc thừa nhận Đảng là
người lãnh đạo duy nhất, đại biểu cho quyền lợi cơ bản và thiết than
của mình”.
- Bản chất của
Đảng còn thể hiện ở định hướng xây dựng Đảng thành Đảng gắn bó
máu thịt với giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc
trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ của cách mạng VN. Vì theo Người “
Đảng ta vĩ địa vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân
tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, “là thống nhất, độc lập,
hòa bình, ấm no”.
- Tóm lại, trên cơ sở giải quyết sáng tạo, khôn khéo
yếu tố dân tộc và giai cấp, vững vàn về nguyên tắc và phương châm xây
dựng Đảng, HCM xác định: Đảng ta
là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc
VN; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là
đôi tiên phong của cách mạng dân tộc. Qua thục tiễn cách mạng HCM cho
rằng: Đảng ta xứng đấng là đội tiên phong, là bộ tham mưu của giai
cấp vô sản, của nhân dân ao động và của cá dân tộc. Quan điểm này là
1 quan điểm lớn của HCM, bổ sung vào kho tàng lý luận của CN Mác-
Lênin. Về vấn đề này, năm 1948,CMác và Ăngghen đã khẳng định trong
Tuyên ngôn của Đảng cộng sản rằng, Đảng cộng sản là đội tiên phong
của giai cấp vô sản, trong cuộc đấu tranh giành lấy chính quyền thì
giai cấp vô sản phải “ phải tự mình vươn lên thành giai cấp, phải tự
mình trở thành dân tộc”. Với HCM, quan điểm này đã được cụ thể hóa
trong thực tiễn sinh động của phong trào công nhân và cách mạng VN. Vì
vậy trong xây dựng Đảng, không phải chỉ có giai cấp công nhân mà cả
nhân dân lao động và cả dân tộc đều tham gia. Cả dân tộc thừa nhận
Đảng là của mình, cả nhân dân tộc tin tưởng ở Đảng, quyết tâm thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, tích cực bảo vệ và tham gia xây
dụng Đảng.Điều này thục sự là niềm tự hào của Đảng ta, không phải
Đảng nào cũng có được.
Vấn đề 13: Nhận định:
Yêu người là điểm cốt lõi trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Với quan niệm con
người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, phải “làm
cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần
đi”, HCM yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp
trong con người.
Trên cơ sở tiếp
thu, kế thừa truyền thống đạo đức của dân tộc VN; tinh hoa triết học và văn hóa
phương Đông và phương Tây; những tư tưởng đạo đức của Mác, Ăngghen và Lênin và
các tấm gương đạo đớc mà các ông để lại; cùng với thực tiễn đấu tranh kiên cường
bất khuất của dân tộc VN, truyền thống LS cách mạng VN và từ bản thân cuộc đời
hoạt động cách mạng của mình, HCM đã hình thành tư tưởng của mình về vị trí,
vai trò, sức mạnh của đạo đức trong mối quan hệ với tài, từ đó vạch ra những
chuẩn mực đạo đức: trung với nước, hiếu với dân, cần kiệm liêm chính, chí công
vô tư, yêu thương con người, tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung cùng với
những nguyên tắc để xây dựng những chuẩn mực đạo đức ấy: nói đi đôi với làm,
nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống, tu dưỡng và rèn luyện đạo đức suốt
đời như ngọc càng mài càng trong, vàng càng luyện càng sáng.
HCM đã nhìn ra đạo
đức co thể gấp 10 lần sức mạnh của con người, đã thấy được ở phương Đông 1 tấm
gương có giá trị gấp trăm bài diễn thuyết. Do đó, Người chú trọng vấn đề đạo đức,
đặc biệt xây dựng nẫu người toàn diện cả đức lẫn tài, cả tâm hồn lẫn trí tuệ và
sức khỏe, phải trung với nước, hiếu với dân, phải yêu thương con người, phải cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, phải có tinh thần quốc tế trong sáng. Đối với
người nói là phải đi đôi với làm, phải làm gương “Đảng viên đi trước, làng nước
theo sau” xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời giống như ngọc
càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.
Có thể nói bản chất
đạo đức HCM là CN nhân văn HCM, trong đó yêu người là điểm cốt lõi, chủ nghĩa
nhân đạo vừa là điểm xuất phát, vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ học
thuyết đạo đức của HCM và được thể hiện qua mấy điểm sau:
- Một là, chủ
nghĩa nhân đạo HCM là lòng yêu nước thương con người, trước hết là những người
cùng khổ trong XH. Ngay cả những người lầm đường lạc lối, HCM cũng tỏ ra sự
khoan dung, độ lượng: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài
đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác
nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng
đại độ”. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh áp bức bóc lột của nhân dân
các nước thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu
thương những người cùng cảnh ngộ, những người LĐ nghèo đói, những người thuộc
các dân tộc khác có chung số phận với dân tộc VN. Trong bài Đoàn kết giai cấp,
năm 1924, HCM viết: “Dù là màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có 2 giống người:
giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu
ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”.
Xuất phát từ
tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải
phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của HCM đã từng nói rõ trong Lời ra mắt của báo Người cùng khổ(Le Paria)
năm 1921: “đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động khổ
đến giải phóng con người”.
- Hai là, trong
CN nhân đạo HCM ý thức giải phóng cho dân tộc mình, đất nước mình là vấn đề lớn
nhất, bao trùm nhất. Với HCM, yêu nước gắn với yêu dân, yêu nước thương dân trước
hết và chủ yếu là tình yêu thương đồng bào. Người nói/; “Tôi chỉ có 1 sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Ngay sau CMT8
thành công, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc
dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt, phải xóa đói nghèo, làm cho
KT phát triển. KT có phát triển đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường
thịnh. Rồi người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù
chữ, phát triển giáo dục để dân tộc VN trở thành 1 dân tộc dũng cảm, yêu nước,
yêu LĐ, 1 dân tộc xứng đáng với nước VN độc lập. Tình yêu thương con người ở
HCM không chỉ giới hạn ở nhân dân VN mà là tình bác ái bao la.
- Ba là, yêu
thương con người, tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con
người, kính trọng nhân dân, cùng nhân dân thực hiện các mục tiêu cách mạng. Người
từng nói “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “người là gốc của làng nước”, “nước
lấy dân làm gốc”, “gốc có vững cây mới bền”, “xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”. CMT8/1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của UB nghiên cứu kế hoạch kiến
quốc, HCM nêu rõ mục tiêu của nhà nước là:
“1.
Làm cho dân có ăn.
2.
Làm cho dân có mặc.
3.
Làm cho dân có chỗ ở.
4.
Làm cho dân có học hành”.
Người còn nói
“Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi…
Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do,
độc lập cũng không làm gì. Dân chĩi3 biết rõ giá trị của tự do, củ độc lập khi
mà dân được ăn no, mặc đủ”.
Vấn đề 15: Những động lực và trở lực của công cuộc xây dựng
CNXH trong tư tưởng HCM về CNXH.
- Theo HCM những động
lực thúc đẩy công cuộc xây dựng CNXH bao gồm:
+ Theo người động
lực quan trọng và quyết định của xây dựng CNXH chính là nhân tố con người. Trong
bài Xây dựng những con người của CNXH tháng 3/1961, HCM viết: “Muốn xây dựng
CNXH, trước hết cần có những con người XHCN ”.
+ Mặt khác theo
Người, truyền thống yêu nước của dân tộc, sự cố kết cộng đồng, sức LĐ sáng tạo
của nhân dân là sức mạnh tổng hợp tạo nên động lực quan trọng của công cuộc xây
dựng CNXH. Người luôn xây đắp khối đoàn kết dân tộc và nhấn mạnh: đoàn kết, đại
đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô địch.
+ Theo Người,
văn hóa cũng là động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp xây dựng CNXH. Nhận thấy
rõ vai trò ngày càng tăng của văn hóa trong sự phát triển. Người cho rằng văn
hóa phải soi đường cho quốc dân đi; phải xúc tiến công tác đào tạo con người mới
và cán bộ mới. Đó là nguồn vốn, là của cải quý báu nhất của quốc gia. Như trong
Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951, HCM viết: “ văn hóa, nghệ
thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong KT và
CT”.
+ HCM coi trọng
động lực KT trong sự nghiệp xây dựng CNXH, nhất là lĩnh vực SX, kinh doanh có
tác dụng giải phóng mọi năng lực SX vì ích nước, lợi nhà. Trong bài nói tại Hội
nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần
chúng(11/02/1960), HCM nói: “ Muốn tiến lên CNXH thì phải phát triển KT và văn
hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế ? Tục ngữ ta có câu: Có thực
mới vực được đạo; vì thế KT phải đi trước. Nhưng phát triển để làm gì? Phát triển
KT và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”’; “Văn
hóa phải gắn liền với LĐ SX. Văn hóa xa đời sống và xa LĐ là văn hóa suông”. Nhấn mạnh vai trò của phát
triển KT với thắng lợi của chế độ XHCN qua cuộc nói chuyện với nhân dân Thủ đô
về thành công của Đại hội lần thứ 21 ĐCS Liên Xô tối 19/02/1959, Người khẳng định
: “Tờ báo tư sản Mỹ Cộng hòa mới viết: Liên Xô chọn KT làm chiến trường, trên
chiến trường ấy chủ nghĩa cộng sản sẽ thắng lợi”.
+ Theo HCM cần
phải kết hợp được các nhân tố nội sinh với các nhân tố ngoại sinh. Một trong những
sự kết hợp đó, chính là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Trong bài Con đường cứu nước
và giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay, tháng 1/1959, HCM viết: “Cách mạng
VN đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, điều đó chứng minh rằng trong thời đại
đế quốc chủ nghĩa, ở 1 nước thuộc địa nhỏ, với sự lãnh đạo của giai cấp vô sản
và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân dân rộng rãi trước hết là nông dân và
đoàn kết được mọi tầng lớp nhân dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự
đồng tình và ủng hộ của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là phe XHCM
hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi”. Tuy nhiên người cũng căn dặn:
“Sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được
ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân
tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(trong Bài nói tại Hội nghị
chiến tranh du kích, tháng 7/1952).
- HCM đã chỉ rõ những
trở lực như yếu tố kìm hãm, triệt tiêu nguồn lực vốn có của CNXH mà muốn xây dựng
và đi lên CNXH phải triệt tiêu cho bằng được đó là:
+ HCM, lưu tâm đến
3 thứ giặc: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Đó cũng chính là nêu rất khái
quát về 3 “trở lực” cho cách mạng nước ta.
+ Khi bước vào
xây dựng CNXH ở miền Bắc, Người lại lưu ý: “Để tiến lên CNXH, cuộc đấu tranh phải
lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ địch chống lại cách
mạng. Theo đó, “kẻ địch” gồm có 3 loại:
● CNTB và bọn
đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm.
● Thói quen
và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến
bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó 1 cách rất cẩn thận,
rất khó chịu, rất lâu dài.
● Chủ nghĩa
cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ
dịp hoặc dịp thất bại, hoặc dịp thắng lợi, để ngóc đầu dậy. Nó là bạn đồng minh
của 2 kẻ địch kia ”.
Trong đó người
đặc biệt nhấn mạnh: chướng ngại vật lớn trên con đường xây dựng CNXH chính là
tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của
cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Trong bài Đạo đức cách mạng, tháng
12/1958, HCM viết: “Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan
liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí”. Trong Bài nói chuyện tại
Đại hội lần thứ 3 của Đoàn thanh niên Lao động VN, ngày 24/03/1961, HCM viết:
“Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng chỉ lo cho lợi ích riêng của mình, không
quan tâm đến lợi ích riêng của tập thể… Nó là mẹ đẻ ra tất cả mọi tính hư nết xấu…Nó
là kẻ thù hung ác của đạo đức cách mạng, CNXH”. Trong bài Nâng cao đạo đức cách
mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, ngày 03/02/1969, HCM viết: “ Phải kiên quyết
quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập
thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật” và “ …thắng lợi của CNXH
không tể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.
+ HCM coi tham
ô, lãng phí là 1 trở lực cho sự nghiệp xây dựng CNXH(gắn liền với tệ quan liêu,
mệnh lệnh…). Bởi vì, trong điều kiện và hoàn cảnh mới thì Đảng lãnh đạo chính
quyền, cán bộ, đảng viên có cương vị, công việc hằng ngày gắn đến nhiều những
nhu cầu, lợi ích, nhất là lợi ích KT(tiền bạc, của cải,…) của nhà nước, của
nhân dân ở các ngành, các cấp. Đó là “những viên đạn bọc đường” rất dễ bắn gục
con người, thậm chí cả những người rất kiên cường trong lao tù, trong chiến trận
chống bọn xâm lược và tay sai trước đây. Người nhấn mạnh: “Tham ô, lãng phí tài
sản của nhà nước, của tập thể, của nhân dân là hành động trộm cắp, mà ai cũng
phải thù ghét, phải trừ bỏ”. Và ai cũng biết, HCM thường coi đó “là hành động xấu
xa nhất của con người… Nó có hại đến sự nghiệp xây dựng nhà nước”, là “giặc nội
xâm”.
+ HCM coi bệnh
chủ quan, bảo thủ, chủ nghĩa kinh nghiệm, giáo điều, lười biếng không chịu học
tập cái mới… là trở lực của quá trình xây dựng CNXH. Trong Diễn văn khai mạc Đại
hội lần thứ 3 của Đảng ta(1960), Người chỉ rõ: “ Chúng ta còn nhiều khuyết điểm
như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong
quan liêu, chủ nghĩa cá nhân… Những khuyết điểm ấy ngăn trở sự tiến bộ của…
chúng ta”. Người đã nhiều lần chú ý việc học tập CN Mác – Lênin, kinh nghiệm
các nước khác, kinh nghiệm của đơn vị khác, người khác… đều phải chủ động, sáng
tạo, chứ không “rập khuôn máy móc”. Trong bài Đạo đức cách mạng, tháng 12/1958,
HCM viết: “Học tập CN Mác – Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối
với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của
CN Mác – Lênin để áp dụng 1 cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học
để mà làm, lý luận đi đôi với thực tiễn”; cũng như trong Diễn văn khai mạc lớp
học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc, ngày 7/9/1957, HCM viết: “Phải học tập
tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin: học tập lập trường, quan điểm và phương
pháp của CN Mác – Lênin để áp dụng… giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế
trong công tác cách mạng của chúng ta. Như thế chúng ta học tập lý luận là cốt
để áp dụng vào thực tế” và “không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình trong
khi học tập kinh nghiệm của các nước anh em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm
chủ nghĩa giáo điều”.
Câu hỏi thêm từ vấn đề 15: Trong giai đoạn hiện nay chúng ta
sẽ vận dụng những động lực và trở lực đó như thế nào cho công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta ?
Trong giai đoạn hiện
nay, cách mạng nước ta đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, thời kỳ rất cần
những con người đủ đức, đủ tài gánh vác, chèo lái để xây dựng CNXH. Hơn bao giờ
hết, chúng ta phải nghiêm túc học tập, nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng
HCM về những “động lực” cũng như cần phải khẳng định những lời dạy của Người
khi cảnh báo những trở lực đối với sự nghiệp xây dựng CNXH vẫn còn nguyên giá
trị. Sự xuống cấp về đạo đức XH, sự tha hóa, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên, đang là nỗi lo , là giặc nội xâm, là những thách thức cản
trở sự nghiệp cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Chỉ thị 06 của Bộ CT
phát động thực hiện cuộc vận động: “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”
cũng chính là thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi những trở lực ấy, nhằm xây
dựng nền tảng đạo đức, con người XHCN trong giai đoạn cách mạng mới.
Vấn đề 19: Quan điểm: “Muốn xây dựng CNXH phải có con người
mới XHCN” của HCM.
Sự nghiệp đấu tranh
CM nhằm biến XH cũ, xấu xa, bất công và phi nhân tính thành một XH mới, tốt đẹp
và công bằng cho tất cả mọi người là 1 quá trình đầy cam go, thử thách. Chủ tịch
HCM từng khẳng định, có độc lập, tự do mà nhân dân vẫn chết đói, chết rét thì độc
lập, tự do cũng chẳng có ý nghĩa gì; nhân dân chỉ hiểu rõ giá trị của độc lập,
tự do khi họ dân được ăn no, mặc ấm… Chỉ có CNXH mới đem lại cho nhân dân tất
thảy những quyền con người hết sức tự nhiên và chân chính ấy. Trong đó biện
pháp “xây dựng con người mới XHCN” là 1 trong những yếu tố quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng CNXH ở VN.
Tư tưởng về xây dựng
con người mới XHCN thể hiện sự vĩ đại, sâu sắc trong tầm nhìn của Chủ tịch HCM.
Với tư tưởng này, Người không chỉ thấy hiện tại mà còn thấy cả tương lai; không
chỉ dành tâm huyết trước mắt cho sự nghiệp CM mà còn chăm lo vun trồng cái gốc
của sự nghiệp đó để nó trở nên vững bền. Ở đây quan điểm biện chứng duy vật về
sự phát triển mà Người tiếp thu từ CN Mác – Lênin được vận dụng 1 cách sáng tạo:
tương lai đang ở ngay trong hiện tại.
HCM đánh giá rất
cao vai trò của thế hệ trẻ qua cách nói: “ Đầy nhiệt huyết, có sức sống tràn trề
và năng lực sáng tạo…, đó là thế mạnh, là vốn quý của tuổi trẻ”. Với tư cách là
đội ngũ dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của CM và là những người chủ tương lai
của nước nhà, các thế hệ trẻ - trước hết là thanh niên, có trách nhiệm kế tục sự
nghiệp CM, thực hiện sứ mệnh LS vẻ vang mà lớp người đi trước đã chuyển giao
vào tay mình. Coi vận mệnh của nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh 1 phần lớn
là do thanh niên, HCM khẳng định, thanh niên phải trở thành 1 lực lượng to lớn,
vững chắc trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, phải là người tiếp sức CM
cho thế hệ thanh niên già, … là người xung phong trong công cuộc phát triển KT
và văn hóa, trong sự nghiệp xây dựng CNXH.
Việc xây dựng con
người mới XHCN là nhiệm vụ rất quan trọng và rất cần thiết. Bằng kinh nghiệm thực
tiễn phong phú của mình, kết hợp với lý luận CM, từ rất sớm, HCM đã nhận thức
rõ rằng, 1 dân tộc dốt là 1 dân tộc yếu. Do vậy, ngay từ những ngày đầu mới
thành lập chính quyền CM, Người đã coi việc xóa mù chữ, tiêu diệt giặc dốt và
nâng cao dân trí là nhiệm vụ thứ 2 trong số 6 nhiệm vụ cấp bách của đất nước
lúc bấy giờ. Bởi vậy, dù bận trăm công nghìn việc, Người vận thường xuyên quan
tâm và chăm lo sự nghiệp giáo dục của nước nhà, coi giáo dục XHCN là phương thức
quan trọng nhất của sự nghiệp trồng người XHCN, là 1 mắt xích không thể thiếu
trong chiến lược bồi dưỡng thế hệ trẻ, xây dựng con người mới XHCN. Người dành
sự quan tâm đặc biệt đến SV và học sinh. Để xứng đáng là thế hệ CM của đời sau,
HCM đòi hỏi phải ra sức học tập: học tập trong nhà trường, trong gia đình và
ngoài XH; học tập qua sách vở và từ chính thực tiễn cuộc sống. Học không phải để
làm quan như trong XH cũ, mà là “Để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm
cho dân giàu nước mạnh, tức là để làm tròn nhiệm vụ người chủ của nước nhà ”.
Người đòi hỏi thế hệ trẻ phải luôn tự rèn luyện, tu dưỡng trong thực tiễn nhằm
xây dựng, phát triển các phẩm chất, năng lực cần thiết để sau này có thể cống
hiến được nhiều nhất cho quê hương, cộng đồng và XH. Theo người, việc tự rèn
luyện, tu dưỡng đó cần tuân theo nguyên tắc nhất quán: điều gì phải thì cố làm
cho kỳ được; điều gì trái thì hết sức tránh, dù nó là nhỏ.
Chủ tịch HCM nhiều
lần khẳng định, muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có những con người XHCN. Muốn
làm tròn trọng trách người chủ tương lai của đất nước, thế hệ trẻ phải được
giáo dục, bồi dưỡng 1 cách thường xuyên, khoa học và toàn diện. Người chỉ rõ:
“Việc xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc” và yêu
cầu: “Phải chú trọng đủ các mặt, đạo đức CM, giác ngộ XHCN, văn hóa, kỹ thuật,
lao động và SX”, trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt mà
phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết
các vấn đề do CM nước ta đề ra, trong thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của
khoa học kỹ thuật. Có như vậy, họ mới hội đủ các phẩm chất, năng lực cần thiết,
cả trí tuệ lẫn bản lĩnh CT, cả về nhân cách, đạo đức lẫn sức khỏe, để đáp ứng
những yêu cầu của công cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng CNXH. Theo đó, việc bồi
dưỡng thế hệ trẻ cần tập trung vào những nội dung sau:
+ Một là, bồi dưỡng
đạo đức CM: Theo HCM, trong việc bồi dưỡng thế hệ trẻ, nội dung quan trọng hàng
đầu là xây dựng đạo đức CM, giáo dục tư tưởng XHCn và gột rửa chủ nghĩa cá
nhân. Không phải ngẫu nhiên mà Người đặt tư cách đạo đức của người cách mạng là
nội dung trước tiên của tác phẩm Đường kách mệnh. Tư tưởng của Người về đạo đức
CM chứa đựng nhân sinh quan và giá trị quan hết sức sâu sắc đối với việc xác lập
nhân cách, lý tưởng cũng như chuẩn mực lối sống cho thế hệ trẻ. Đạo đức CM là đạo
đức mới, là phẩm chất không thể thiếu và là cái gốc của con người XHCN. Bởi
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người CM phải có đạo đức, không có đạo đức
thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Theo Người, nội dung cốt
lõi nhất của đạo đức CM là cần, kiệm, liêm, chính. Những phẩm chất này giống
như 4 mùa của trời đất, nếu thiếu 1 trong 4 phẩm chất đó thì con người không thể
trở thành người theo đúng nghĩa. Nhưng đạo đức CM không phải là cái có sẵn,
không phải từ trên trời rơi xuống, mà là kết quả của sự đấu tranh, rèn luyện bền
bỉ hằng ngày của mỗi người. Do vậy, Người cho rằng, đối với thế hệ trẻ, phải
luôn nổ lực rèn luyện đạo đức CM: thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư; sống trong sạch, có chí tiến thủ và đoàn kết, không kêu ngạo; tích cực đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân; phê phán những thói hư, tật xấu; thường xuyên tiến
hành phê bình và tự phê bình… để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
+ Hai là, bồi dưỡng
tri thức lý luận và văn hóa, khoa học – kỹ thuật: Theo HCM, thanh niên phải vừa
có đức vừa có tài. Bởi vì, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó; người có tài mà không có đức sẽ trở nên vô dụng. Hơn nữa chính sự dốt nát
là 1 trong những nguyên nhân cơ bản kìm hãm sự phát triển: “Dốt thì dại, dại
thì hèn”. Vì vậy, để trở thành người có trí tuệ, có tri thức, tức là có tài,
bên cạnh việc trau dồi đạo đức CM, thanh niên còn phải hăng hái học tập, trong
đó có học tập lý luận của CN Mác – Lênin là nhằm trang bị và nâng cao trình độ
lý luận CM – ngọn đèn pha soi sáng cho hoạt động thực tiễn. Cùng với việc học tập
lý luận CM, các thế hệ trẻ còn phải tích cực học tập văn hóa, khoa học – kỹ thuật…;
sử dụng những tri thức đó để xây dựng XH mới. Chủ tịch HCM cho rằng, nhiệm vụ
này quan trọng hơn bao giờ hết, bởi chúng ta đi lên CNXH từ 1 nước nông nghiệp
lạc hậu. Cụ thể hóa mục tiêu, nội dung giáo dục phù hợp với từng cấp học. Người
viết “ Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập
lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước
ta… Trung học thì cần đảm bảo cho học trò nhưng tri thức phổ thông chắc chắn,
thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà… Tiểu học thì cần
giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa
học, trọng của công”.
+ Ba là, bồi dưỡng
thể chất: HCM đặc biệt quan tâm đến sự phát triển toàn diện của thanh, thiếu
niên và nhi đồng VN, trong đó có sự phát triển về mặt thể chất. Theo Người, việc
giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, thực hiện đời sống mới… tất thảy đều phải
có sức khỏe thì mới thành công. Bởi vì, “mỗi 1 người dân yếu ớt, tức là cả nước
yếu ớt, mỗi 1 người dân mạnh khoẻ, tức là cả nước yếu ớt, mỗi 1 người dân mạnh
khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”. Với tinh thần đó, Người đã tự mình nêu gương
sáng về rèn luyện thể dục, thể thao; đồng thời, kêu gọi tất cả mọi người, dù
gái hay trai, già hay trẻ, đều phải thường xuyên rèn luyện thân thể, coi luyện
tập thể dục, bồi bổ sức khỏe vừa là trách nhiệm, vừa là bổn phận của mỗi người
dân yêu nước. Đặc biệt, đối với thanh niên, Người mong muốn họ phải có sức sống
dẻo dai, thể chất cường tráng, tinh thần mạnh mẽ và nghị lực lớn.
Vấn đề 21: Quan điểm tự lực cánh sinh trong tư tưởng HCM.
Quan điểm tự lực cánh sinh trong tư tưởng HCM được thể hiện
chủ yếu trong tư tưởng về con đường cách mạng giải phóng dân tộc; về sự kết hợp
giữa gsức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại như là một trong những biện pháp,
phương pháp, yêu cầu trong xây dựng, kiến thiết đất nước đặc biệt là trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Quan điểm này được hình thành dựa trên cơ sở sâu xa là sự tiếp
thu từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như những bài học kinh nghiệm được
rút ra từ các phong trào yêu nước Việt Nam xét ở góc độ là đường lối cứu nước;
ngoài ra cần khẳng định quan điểm tự lực cánh sinh trong tư tưởng HCM được hình
thành trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc tư tưởng tinh hoa của nhân loại trong đó
cơ sở lý luận giữ vai trò quyết định là chủ nghĩa Mác – Lênin với quan điểm:
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; “sự nghiệp giải phóng của giai cấp công
nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân” – Mác.
Chúng ta biết rằng ngay từ Đại hội V Quốc tế cộng sản
(1924), Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc
biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt
với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa…” và “vận mệnh của giai cấp
vô sản thế giới tùy thuộc phần lớn vào các thuộc địa”.
Dựa vào quan điểm của Mác: “sự nghiệp giải phóng của giai cấp
công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, năm 1921, trong
Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận: “Hỡi
anh em các dân tộc thuộc địa!...công cuộc giải phóng anh, em (nhân dân thuộc địa)
chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Người còn nói: “Những lới tuyên bố tự do của các nhà tư bản
trong lúc chiến tranh thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc.
Và muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy
vào lực lượng của bản thân mình”.
Trên cơ sở vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng trong
cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản: “Trong cuộc đấu
tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách
mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính
quyền”, HCM kết luận tự lực cánh sinh là phương châm chiến lược rất quan trọng
của bạo lực cách mạng. Vì thế, Người luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh,
dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự
giúp lấy mình”. Trong bài nói tại Hội nghị chiến tranh du kích, tháng 7/1952,
HCM nói: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ
thì không xứng đáng được độc lập”, cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan
trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác.
Theo tư liệu Bộ quốc phòng Việt Nam, thì trong thư đề ngày
10/8/1949 gửi Trung ương Đảng Công sản Trung Quốc, Trung ương Đảng ta viết: Muốn
chuyển giai đoạn chiến lược, giành thắng lợi cuối cùng, cố nhiên chúng tôi phải
tự tin vào sức mình, nhưng chúng tôi cũng cần sự giúp đỡ bên ngoài. Đứng trước
những khó khăn về kỹ thuật mà điều kiện kinh tế cho phép vượt qua, đứng trước
tình hình gấp rút, phải tranh thủ thời gian với địch, đứng trước những nhiệm vụ
chiến thuật phải làm để chuyển sang chiến lược mới, chúng tôi không thể không
yêu cầu các đồng chí giúp chúng tôi súng, đạn, dụng cụ, cán bộ…Trong những khoản
chúng tôi yêu cầu, các khoản nào các đồng chí không giúp được, xin các đồng chí
chuyển lời đề nghị của chúng tôi cho Liên Xô và nói hộ những khó khăn của chúng
tôi cho các đồng chí Liên Xô rõ…
Với quan điểm ấy, khi Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến
trong tình trạnh “tứ cố vô thân”, hơn vao giờ hết, tự lực cánh sinh lúc này có
ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Kết quả của tư tưởng đó, như chính HCM đã tổng kết
trong Bài nói chuyện với các thân sĩ trí thức phú hào tỉnh Thanh Hóa, ngày
20/2/1947: “Ta phải làm tự cấp tự túc, dù nó phong tỏa 10 năm, 15 năm ta cũng
không sợ”. Hay trong “Thư gửi quân và dân Tây Bắc”, ngày 21/11/1953, HCM viết:
“kháng chiến của ta nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ, gian khổ, tự lực
cánh sinh”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng: “lấy sức ta mà giải phóng
cho ta, dựa vào sức mình là chính”, tự lực cánh sinh kết hợp với tranh thủ sự
giúp đỡ quốc tế là một quan điểm nhất quán, là một nội dung tất quan trọng
trong tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay cả khi chúng ta đã
tranh thủ được sự đoàn kết quốc tế với sự giúp đỡ và ủng hộ về vật chất và tinh
thần, thì tư tưởng trên của HCM vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa cự kỳ quan trọng
của nó.\
Khi miền Bắc bước vào giai đoạn xây dựng CNXH, HCM hết sức
chú trọng đến vấn đề đào tạo “con người” có tinh thần tự lực cánh sinh. Người
chỉ rõ trong buổi nói chuyện tại Hội nghị Ngoại giao lần 3 (tháng 1/1964), những
phẩm chất đòi hỏi mỗi cán bộ ngoại giao phải có. Đó là: “Một là phải có quan điểm
và lập trường của Đảng làm kim chỉ nam. Hai là phải có tư cách đạo đức tốt,
không để cá nhân lên trên lợi ích chung. Ba là về phương pháp công tác phải thận
trọng, cảnh giác và giữ bí mật nhà nước. Bốn là phải có tinh thần học hỏi và tự
lực cánh sinh, tiết kiệm. Năm là phải học tiếng nước ngoài. Công tác ở nước nào
cần học tiếng của nước đó”.
Trong quá trình xây dựng CNXH, HCM luôn nêu cao tinh thần
tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè thế giới bên cạnh yếu tố quyết định là nội lực
với tinh thần dựa vào sức mình là chính, xem đó như là một biện pháp, yêu cầu để
xây dựng thành công CNXH. “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, ta cũng phải nắm vững
chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”. Chiến tranh, ta tiến công kẻ xâm lược;
hòa bình, ta tiến công đói nghèo, lạc hậu. “Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!”.
Vấn đề 23: Cở sở phương pháp luận nghiên cứu môn học tư tưởng
HCM.
Phương
pháp luận là khoa học lý luận về các phương pháp nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Nghiên cứu môn học tư tưởng HCM dựa trên một số nguyên tắc phương pháp luận dưới
đây:
* Đảm bảo
sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học
Nghiên cứu
môn học tư tưởng HCM phải đứng vững trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận
chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam; bảo
đảm tính khách quan khi phân tích, lý giải và
đánh giá tư tưởng HCM, tránh việc áp đặt, cường điệu hóa hoặc hiện đại
hóa tư tưởng của Người. Tính Đảng và tính khoa học thống nhất với nhau trong sự
phản ánh trung thực, khách quan tư tưởng HCM trên cơ sở lập trường, phương pháp
luận và định hướng chính trị nghiên cứu đúng đắn.
* Quan điểm
thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn với thực tiễn.
Trong “Diễn
văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn Ái Quốc”, ngày 7/9/1957, HCM
viết: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin”. Đây là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của
Người có sức sống trường tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại.
Cũng trong bài diễn văn trên, HCM nói: “Lý luận là sự tổng kết
những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”, “Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
là sự tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân từ trước đến nay của tất cả
các nước”. Còn “Thực tế là các vấn đề mình phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự
vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn
đề mà cách mạng đề ra cho ta giải quyết. Thực tế bao gồm rất rộng. Nó bao gồm
kinh nghiệm công tác và tư tưởng của cá nhân, chính sách và đường lối của Đảng,
kinh nghiệm lịch sử của Đảng cho đến các vấn đề trong nước và trên thế giới”.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10/1947 ký tên
X.Y.Z, xuất bản đầu tiên năm 1948, HCM viết: “Lý luận là đem thực tế trong lịch
sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng
rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận,
chân chính”. Cũng trong tác phẩm này, HCM đánh giá rất cao vai trò của lý luận
trong mối quan hệ với thực tiễn: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng
cho chúng ta trong cộng việc thực tế” và “không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi”, “Có kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng một mắt
mờ”; “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận
mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”. Vì thế mà Người luôn nhấn mạnh:
“Lý luận phải liên hệ với thực tế”, “lý luận và thực hành phải luôn đi đôi với
nhau”, “phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”, “lý luận cốt để áp dụng
vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông”.
Tuy nhiên, HCM luôn chỉ rõ “lý luận không phải là một cái gì
cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn được bổ sung bằng những kết luận
mới rút ra từ thực tiễn sinh động”.
* Quan điểm lịch sử - cụ thể
Cùng với chủ nghĩa duy vật biện chúng, chúng ta cần vận dụng
chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu, học tập môn tư tưởng HCM.
Tư tưởng HCM là sản phẩm của một thời kỳ lịch sử cụ thể, phản
ánh tính hiện thực lịch sử và chịu sự chi phối của điều kiện lịch sử. Vì thế,
luôn đặt quan điểm, luận điểm của HCM trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xem xét
những quan điểm của HCM trong mối quan hệ biện chứng với thực tiễn cuộc sống,
liên tục vận động và phát triển không ngừng tương tác với những điều kiện và
hoàn cảnh nhất định.
* Quan điểm toàn diện và hệ thống
Phải nhìn sự vật toàn diện, bao quát, luôn luôn quán triệt mối
liên hệ qua lại của các yếu tố, các bộ phận khác nhau trong sự gắn kết tất yếu của hệ thống tư tưởng HCM quanh hạt
nhân cốt lõi là tư tưởng độc lập, tự do, dân chủ và CNXH. Đồng thời tránh bỏ
sót việc lớn, cơ bản, ảnh hưởng đến đại cục; phải xem xét sự vật trong quá
trình phát sinh, phát triển, và đặt sự vật trong tổng thể, trong mối liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau. Việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM luôn quán triệt
quan điểm của Người là nhất quán trong một hệ thống tư tưởng chặt chẽ.
* Quan điểm kế thừa và phát triển
Quán triệt quan điểmcủa HCM: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Quan điểm này của HCM được biết đến vào ngày 31/5/1946. Trong quá trình vận dụng
và phát triển tư tưởng HCM theo quan điểm kế thừa và phát triển, chú ý vận dụng
tinh thần và phương pháp của Người để nhận thức và hành động đúng quy luật, giải
quyết những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra. Cuộc sống vận động không ngừng, phải
nắm bắt đúng tình hình thực tế trong nước và thế giới để vận dụng và phát triển
tư tưởng HCM trong điều kiện lịch sử mới, trong bối cảnh cụ thể của đất nước và
quốc tế.
* Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách
mạng của HCM
Nghiên cứu tư tưởng HCM không chỉ căn cứ vào các tác phẩm,
bài viết, bài nói mà cần coi trọng hoạt động thực tiễn của Người, thực tiễn
cách mạng dưới sự tổ chức và lạnh đạo của Đảng do Người đứng đầu. Hành động thực
tiễn, chủ nghĩa anh hùng cách mạnh trong chiến đấu và xây dựng của nhân dân Việt
Nam theo tư tưởng HCM cũng chính là lời giải thích rõ ràng giá trị khoa học của
tư tưởng HCM.
Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Sự sáng tạo cách mạng
của HCM trước hết là sự sáng tạo về tư duy lý luận, về chiến lược về đường lối
cách mạng Việt Nam.
Vấn đề 24: Cơ sở khách quan và những nhân tố chủ quan hình
thành tư tưởng HCM.
Không một tư tưởng nào lại ra đời trên một mảnh đất trống
không mà bao giờ nó cũng ra đời trên một mảnh đất hiện thực. Trên mảnh đất hiện
thực, nó kế thừa những gì có giá trị, hợp lý đồng thời chọn lọc và bổ sung vào
đó những nhân tố mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng nằm trong sự quy định ấy. Nó được
hình thành dựa trên những cơ sở khách quan, chủ quan nhất định.
1. Bối cảnh lịch sử - xã hội ra đời tư tưởng Hồ Chí Minh
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới chứng kiến nhiều sự
kiện lịch sử trọng đại, phản ánh xu hướng biến động đầy kịch tính của xã hội
loài người. Các nước đế quốc chủ nghĩa hầu như đã phân chia xong thị trường thế
giới. Đa số các quốc gia phong kiến phương Đông, các nước lạc hậu ở châu Phi,
châu Mỹ Latinh đã bị xâm chiếm làm thuộc địa, những mâu thuẫn lớn của thời đại
ngày càng gay gắt như: Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản ở các
nước đế quốc, mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân, mâu
thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến,… những mâu thuẫn đó tích tụ lại tạo
thành thời kỳ bão táp cách mạng và chiến tranh ở những năm đầu của thế kỷ XX, mở
đầu là thắng lợi rực rỡ của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917.
Trước đó, nhiều phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và lệ thuộc
đã diễn ra mạnh mẽ và liên tục, nhất là ở các nước thuộc địa phương Đông. Tuy
nhiên, các phong trào đó đều thất bại vì người lãnh đạo phần lớn thuộc về giai
cấp địa chủ phong kiến, số ít là lãnh tụ nông dân và sau đó thuộc giai cấp tư sản
dân tộc; Vì mục tiêu của phong trào chỉ hướng vào mục tiêu dân tộc, ít nhằm vào
mục tiêu dân chủ và không nhằm mục tiêu giải phóng triệt để nhân dân lao động;
vì đường lối không đúng nên không thu hút được sức mạnh của cả dân tộc…
Sự thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa và phụ thuộc cũng như sự thành công của Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười
Nga đã chỉ ra rằng: Ở những năm đầu thế
kỷ XX, chỉ có những phong trào cách mạng nào có mục tiêu giải quyết đồng thời
những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước mình thì mới có thể đi tới thắng lợi. Một
cuộc cách mạng như vậy chỉ có thể do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản đứng
ra lãnh đạo và tổ chức dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Việt Nam, một quốc gia phong kiến nhỏ bé và lạc hậu ở Đông
Dương, cũng không thoát khỏi thân phận là thuộc địa của thực dân Pháp. Sau Cách
mạng tháng Mười Nga, Việt Nam cũng là nơi hội tụ hầu hết những mâu thuẫn lớn của
thời đại. Phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam cũng liên tiếp nổ
ra nhưng đều lần lượt thất bại vì bế tắc về đường lối, khủng hoảng về lực lượng
lãnh đạo có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của lịch sử. Nhưng cũng vì vậy mà tư tưởng
chống Pháp và nguyện vọng giải phóng dân tộc ngày càng trở nên tha thiết mãnh
liệt, nhất là đối với những tầng lớp trí thức mới, có lòng yêu nước nồng nàn.
Tuy nhiên tất cả những con đường giải phóng dân tộc mà họ tìm kiếm vẫn chưa
thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn trước đây.
Trong bối cảnh lịch sử ấy của đất nước và của thời đại, Hồ
Chí Minh đã nhận sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc, thực hiện dân chủ, đưa đất
nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, theo con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã vạch
ra. Hoàn cảnh lịch sử với yêu cầu cách mạng ấy là điều kiện đầu tiên quy định mục
tiêu, khơi nguồn động lực cho việc hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
HCM sinh ra ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An – một
vùng quê giàu truyền thống yêu nước, thương người. Thuở niên thiếu, HCM được
ông ngoại, cha và các cụ đồ nho nổi tiếng rèn dủa lịch sử dân tộc, hun đúc truyền
thống bất khuất, yêu nước thương dân, căm ghét sự bất công, tàn bạo. Cuộc sống
vất vả ở quê hương đã nuôi dưỡng những tình cảm ban đầu về gia đình, quê hương,
đất nước. Sang tuổi thanh niên, phần lớn thời gian HCM sống cùng cha ở kinh
thành Huế, theo học ở trường Quốc học Huế. Ở đâu, Người cũng tận mắt chứng kiến
sự bóc lột dã man, tàn bạo của thực dân Pháp, sự thối nát hèn hạ của triều đình
nhà Nguyễn. Ở đâu, Người cũng nhìn thấy nỗi đau mất nước đầy ắp trong tâm khảm
mỗi người Việt Nam yêu nước. Người còn chứng kiến tận mắt sự thất bại liên tiếp
của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp lúc bấy giờ.
Thực tế cuộc sống đã thúc đẩy HCM tích lũy thêm những kiến
thức khác nhau, sàng lọc những tư tưởng tiến bộ, loại bỏ dần những tư tưởng lạc
hậu, lỗi thời, nhất là sau khi được tiếp xúc với những tư tưởng mới của các nhà
cải cách Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Tôn Trung Sơn,…Có lẽ đó cũng là cái cầu
nối khiến Người lưu ý đến cá nhà triết học khai sáng Pháp với khẩu hiệu “tự do,
bình đẳng, bác ái”. Với vốn kiến thức thực tế và tri thức mới, HCM không đồng ý
đi theo con đường “bạo động”, “duy tân”,…mà quyết định tìm con đường khác cứu
dân, cứu nước. HCM quyết định sang Pháp để thực hiện mục tiêu đó. Măm 1911, với
hai bàn tay trắng, Người lên một chuyến tàu buôn sang Pháp. Đó là quyết định
sáng suốt của HCM, mở ra một tiền đề mới của lịch sử tư tưởng giái phóng dân tộc
Việt Nam.
Trải qua một thời kỳ gần suốt mười năm cật lực lao động để
kiếm sống, tận tâm học hỏi, nghiên cứu suy ngẫm những thành tựu mới của tri thức
nhân loại ở nhiều nước, cũng như tích cực tham gia vào thực tiễn đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân ở chính quốc và các nước thuộc địa. Sự kiện đầu
tiên xác định cột mốc thời gian Người bắt đầu bước lên vũ đài chính trị của thế
giới là vào năm 1919, khi Người gửi bản yêu sách gồm tám điểm đến Hội nghị
Vécxây đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tụ do dân chủ và quyền bình
đẳng của dân tộc Việt Nam. Nhưng không được chấp thuận. Từ đó, HCM rút ra kết
luận chính trị quan trọng: “Những lời tuyên bố tự do của các nhà tư bản trong lúc
chiến trang thật ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Và muốn
được giải phóng, các dân tộc chí có thể trong cậy vào mình, trong cậy vào lực
lượng của bản thân mình”. Người Việt Nam phải tự giải phóng mình. Phải đấu
tranh để tự giải phóng là tư tưởng hết sức đúng đắn của HCM. Nhưng tự giải
phóng bằng con đường nào thì lúc bấy giờ vẫn chư tìm ra. Vì vậy mà khát vọng phải
tìm cho được con đường cứu nước, cứu dân ở HCM ngày càng trở nên cháy bỏng.
Chính khát vọng ấy đã dẫn HCM đến với bản Sơ thảo những luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Từ bản luận cương ấy, người đã
tìm thấy ánh sáng và đường lối cách mạng đún đắng giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau này, người nhắc lại cảm tưởng của mình: “Trong Luận cương ấy, có những chữ
chính trị khó hiểu. Nhưng cứ đọc đi, đọc lại nhiều lần, cuối cùng tôi cũng hiểu
được phần chính. Luận cương của Lênin làm tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ,
tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng
mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa
đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta. Đây là con đường giải phóng
chúng ta”. Tứ đó, “Người hoàn toàn tin theo Lênin và Quốc tế III. Người say mê
nghiên cứu các tác phẩm của Mác và Lênin. Tác phẩm Tư bản của Các Mác là cuốn
sách gối đầu giường của Người.
Các yếu tố thuộc về hoàn cảnh lịch sử - xã hội kể trên đã trở
thành những tiền đề cần thiết khách quan đầu tiên quy định sự hình thành tư tưởng
HCM. Tuy nhiên, việc hình thành tư tưởng HCM còn phải kể đến các yếu tố với tư
cách l;à cơ sở khách quan cho sự ra đời của một hệ thống tư tưởng vĩ đại HCM.
2. Những tiền đề tư tưởng – lý luận:
Một là, tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
HCM là một trong những người con ưu tú của dân tộc. Trong mấy
nghìn năm phát triển của lịch sử, dân tộc Việt Nam đã tạo ra anh hùng thời đại
– HCM người anh hùng dân tộc. Tư tưởng HCM, trước hết bắt nguồn từ truyền thống
của dân tộc, là sự kế thừa và phát triển của các giá trị văn hóa dân tộc. Trong
đó chú ý đến các giá trị tiêu biểu.
* Chủ nghĩa yêu nước và ý chí bất khuất đấu tranh để dựng nước
và giữ nước đã hình thành cho dân tộc Việt Nam các giá trị truyền thồng phong
phú, bền vững. Đó là ý thức về chủ quyền quốc gia dân tộc, tự lực, tự cường,
yêu nước…tạo động lực mạnh mẽ của đất nước.
* Tinh thần nhân nghĩa và truyền thống đoàn kết, tương thân,
tương ái trong khó khăn, hoạn nạn.
* Truyền thống lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính mình,
tin vào sư tất thắng của chân lý và chính nghĩa dù phải vượt qua muôn ngàn khó
khăn, gian khổ.
* Truyền thống cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham học
hỏi, mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa bên ngoài làm giàu cho văn hóa Việt
Nam. Chính nhờ tiếp thu truyền thống của dân tộc mà HCM đã tìm thấy con đường
đi cho dân tộc như Người đã nói “lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ chưa
phải là chủ nghĩa cộng sản đã giúp tôi tin theo Lênin và đi theo Quốc tế III”.
Hai là, tinh hoa văn hóa nhân loại
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, HCM đã được trang bị hấp
thụ nền Quốc học và Hán học khá vững vàng, chắc chắn. Trên hành trình cứu nước,
Người đã tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vốn sống, vốn kinh nghiệm để làm
giàu tri thức của mình và phục vụ cho cách mạng Việt Nam.
Thứ nhất, văn hóa phương Đông: Người đã tiếp thu tư tưởng của
Nho giáo, Phật giáo và tư tưởng tiến bộ khác của văn hóa phương Đông. Có thể
nói tiếp thu, chắt lọc tinh hoa tư tưởng văn hóa phương Đông đã tạo nên những đặc
sắc trong tư tưởng HCM.
* Nho giáo nói chung và Khổng giáo nói riêng là khoa học về
đạo đức và phép ứng xử, tư tưởng triết lý hành động, lý tưởng về một xã hội
bình trị. Đặc biệt Nho giáo đề cao văn hóa, lễ giáo và tạo ra truyền thống hiếu
học trong dân. Đây là tư tưởng tiến bộ hơn hẳn so với các học thuyết cổ đại.
Tuy nhiên, HCM cũng phê phán Nho giáo có tư tưởng tiêu cực như bảo vệ chế độ phong kiến, phân
chia đẳng cấp – quân tử và tiểu nhân, trọng nam khinh nữ, chỉ đề cao nghề đọc
sách. HCM đã chịu ảnh hưởng của Nho giáo rất nhiều dựa trên nền tảng chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam. Người viết: “Truy Khổng tử là phong kiến và tuy trong học
thuyết của Khổng tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì
chúng ta nên học”.
* Phật giáo vào Việt Nam từ sớm và có ảnh hưởng rất mạnh đối
với Việt Nam. Phật giáo có tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái “lấy đức báo oán”. Phật
giáo có tư tưởng bình đẳng, dân chủ hơn so với Nho giáo, “con người ta khi mới
sinh ra không có ai mang sẵn dấu nô lệ ở trên trán”, “mọi người đều có dòng máu
đỏ”. Phật giáo củng đề cao nếp sống đạo đức, trong sạch, chăm làm điều thiện,
coi trọng lao động. Phật giáo với dân, hòa vào cộng đồng chống kẻ thù chung của
dân tộc là chủ nghĩa thực dân.
Tư tưởng dân chủ tiến bộ như chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung
Sơn có ảnh hưởng đến tư tưởng HCM, vì Người tìm thấy những điều phù hợp với điều
kiện của cách mạng nước ta. HCM là nhà mác – xít tỉnh táo và sáng suốt, biết
khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng văn hóa phương Đông để phục vụ cho
sự nghiệp của cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, văn hóa phương Tây:
* HCM chịu ảnh hưởng sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và
cách mạng phương Tây như: tư tưởng tự do, bình đẳng trong Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Đại cách mạng Pháp năm 1791, tư tưởng dân chủ, về quyền sống,
quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ 1776. Trước
khi ra nước ngoài, Bác đã nghe thấy ba từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Lần đầu
sang Pháp HCM đã thể hiện bản lĩnh, nhân cách, phẩm chất cao thượng, tư duy độc
lập tự chủ. Người đã nhìn thấy mặt trái của “lý tưởng” tự do, bình đẳng, bác
ái. Người cũng tiếp thu tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp như Voltaire,
Rousso, Montesquieu…
* Thiên chúa giáo là tôn giáo lớn của phương Tây, HCM quan
niệm Tôn giáo là văn hóa. Điểm tích cực nhất của Thiên chúa giáo là lòng nhân ái.
HCM tiếp thu có chọn lọc tư tưởng văn hóa Đông – Tây để phục vụ cho cách mạng
Việt Nam. Người dẫn lời của Lênin: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới
thu hái được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”. HCM viết: “Học
thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo
Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó
là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là
chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật
Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều mưu hạnh phúc cho loài người,
cho xã hội. Nếu nay họ nhất định sống chung với nhau hoàn mỹ như những người bạn
thân thiết. Tôi cố gằng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”.
Ba là, chủ nghĩa Mác – Lênin cơ sở thế giới quan và phương
pháp luận của tư tưởng HCM
Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết
định bản chất của tư tường HCM và tư tưởng của Người góp phần làm phong phú
thêm chủ nghĩa Mác – Lênin ở thời đại các dân tộc bị áp bức vùng lên giành độc
lập, tự do. Người nói: “Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những
là cái kim chỉ nam mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng
lợi cuối cùng, đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản”. Vai trò của chủ nghĩa Mác –
Lênin thể hiện:
* Quyết định bản chất thế giới quan khoa học của tư tưởng
HCM.
* Quyết định phương pháp hành động biện chứng của HCM.
* Tư tưởng HCM là chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng sáng tạo
ở Việt Nam, là tư tưởng Việt Nam thời hiện đại.
Sự vận dụng và phát triển của chủ nghĩa Mác – Lênin ở HCM nổi
lên một số điểm đáng chú ý sau đây:
* Khi ra đi tìm đường cứu nước Nguyễn Ái Quốc đã có một vốn
học vấn vững chắc, một năng lực trí tuệ sắc sảo, Người đã phân tích, tổng kết
các phong trào yêu nước Việt Nam, chống Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX;
Người tự hoàn thiện vốn văn hóa, vốn chính trị, vốn sống thực tiễn phong phú nhờ
đó Người đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin như một lẽ tự nhiên “tất yếu khách
quan và phù hợp với quy luật”.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là bộ phận văn hóa đặc sắc nhất của
nhân loại: tinh túy nhất, cách mạng nhất, triệt để nhất là khoa học nhất.
* Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin là tìm con đường
giải phóng cho dân tộc. Người hồi tưởng lần đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Lê nin,
“khi ấy ngồi một mình trong phòng mà tôi nói to lên như đang đứng trước đông đảo
quần chúng: hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ, đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng cho chúng ta”.
* Người vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin thep phương pháp mác
xít và theo tinh thần phương Đông, không sách vở, không kinh viện, không tìm kết
luận có sẵn mà tự tìm ra giải pháp riêng, cụ thể cho cách mạng Việt Nam. Chủ
nghĩa Mác Lênin là cơ sở chủ yếu nhất hình thành tư tưởng HCM.
3. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất, năng lực cá
nhân của HCM.
* HCM có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, có óc phê phán
tinh tường và sáng suốt trong việc nghiên cứu tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn
trên thế giới.
* HCM không ngừng học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức văn
hóa phong phú của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của các phong trào giải
phóng dân tộc. Chính nhân cách, phẩm chất, tài năng và trí tuệ của HCM đã giúp
Người đến với chủ nghĩa Lác – Lênin và tiếp thu được các giá trị tinh hoa văn
hóa của nhân loại.
* HCM là người có ý chí mạnh mẽ - người có chí lớn.
* HCM là người luôn thể hiện đạo đức cách mạnh trong sáng:
có tâm hồn của một người yêu nước vĩ đại một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách
mạng; một trái tim yêu thương nhân dân, thương người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng
hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. HCM từ một người tìm
đường cứu nước đã trở thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo. Khả năng tư
duy, trí tuệ, nhân cách, phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn của
HCM đã tác động rất lớn đến việc hình thành và phát triển tư tưởng của Người.
Tóm lại, tư tưởng HCM là sản phẩm tổng hòa của những điều kiện
khách quan và chủ quan, của truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hóa văn hóa
nhân loại. Cùng với thực tiễn dân tộc và thời đại được HCM tổng kết, chuyển hóa
sắc sảo, tinh tế với một phương pháp khoa học, biện chứng, tư tưởng HCM đã trở
thành tư tưởng Việt Nam hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét