Vấn đề 2: Bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng bị
xâm hại
1.
Trong BLDS, trong trường hợp nào tổn thất về tinh thần
được bồi thường? Nêu rõ định liên quan khi trả lời.
- Trong BLDS, trong các trường hợp sau tổn thất về tinh thần
được bồi thường:
+ Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 609 :
“ Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo
quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh
thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các
bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi
tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định. “
+ Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 610: “ Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
+ Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm: Khoản 2 Điều 611: “ Người xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá mười tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
+ Bồi thường thiệt hại do xâm phạm thi thể: Khoản 3 Điều 628: “Người xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền theo quy định tại khoản 2 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết, nếu không có những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.”
2. Theo pháp luật hiện hành, bồi thường tổn thất về tinh thần
khi tài sản bị xâm phạm có được bồi thường không? Vì sao?
- Theo Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao thì: “thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là
do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc
do tính mạng bị xâm phạm mà người than thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu
đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn
bè xa lánh do bị hiểu nhầm … và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất mà họ phải chịu. Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và
các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do
danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm,
lòng tin … vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một
khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.”
- Hơn nữa, theo Điều 608 BLDS về thiệt hại do tài sản bị xâm
phạm không có quy định về tổn thất tinh thần khi tài sản thiệt hại do bị xâm phạm.
=> Vì vậy có thể khẳng định, trong pháp luật hiện hành tổn
thất về tinh thần
khi tài sản bị xâm phạm không được bồi thường.
3. Suy nghĩ của anh/chị về khả năng được bồi thường tổn thất
về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm.
Theo em, pháp luật hiện hành nên quy định thêm chế định bồi
thường thiệt hại về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm. Bởi lẽ thực tế hiện nay
cho thấy, có những loại tài sản mang giá trị vật chất nhỏ nhưng lại có giá trị
tinh thần rất lớn, có ý nghĩa rất lớn đối với người sở hữu. Và trên thực tế, dù
tài sản có giá trị lớn hay nhỏ thì đều có ý nghĩa về tinh thần nhất định đối với
chủ sở hữu, khi tài sản bị xâm phạm thì tổn thất về tinh thần đối với chủ sở hữu
là thiệt hại thực tế.
Vì vậy, nếu chỉ yêu cầu
người gây thiệt hại bồi thường theo giá trị tài sản của tài sản bị xâm phạm thì
sẽ không thỏa mãn với những thiệt hại to lớn về tinh thần mà người bị thiệt hại
phải chịu đựng. Thiết nghĩ không nên chỉ bồi thường tổn thất tinh thần khi sức
khỏe, tính mạng, danh sự, uy tín, nhân phẩm bị xâm phạm như hiện nay mà cần
công nhận khảnăng được bồi thường tổn thất tinh thần khi có sự thiệt hại về tài
sản cho phù hợp với thực tế cuộc sống.
4. Theo HĐTP, ai được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần
do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
- Theo HĐTP thì những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của anh Nam gồm mẹ, vợ và con mới sinh cùng được hưởng khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm.
- Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy
trang 297 có đoạn: “Về xác đinh tư cách người tham gia tố tụng: sau khi anh Vũ
Hoài Nam bị chết, ngoài chị Nguyễn Thị Phin là người thân thích gần gũi nhất,
thì anh Nam còn có mẹ (bút lục 297) … đồng thời buộc bị đơn dân sự (bà Nguyễn
Thị Thoại) bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh Nam là không đúng, vì những
người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
anh Nam gồm mẹ, vợ và con mới sinh cùng được hưởng khoản tiền
bù đắp tổn thất về tinh thần do anh Nam bị thiệt hại về tính mạng.”
5. Theo HĐTP, ai được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần
do tính mạng cháu Hà và Quảng bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả
lời?
- Theo HĐT, thì chỉ có mẹ của 2 cháu Hà và Quảng là chị Phin
mới được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần do tính mạng của 2 cháu bị xâm
phạm.
- Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy
trang297 có đoạn: “Riêng khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần do cháu Vũ Thu
Hà và cháu Vũ Văn Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có chị Phin (là mẹ của
hai cháu) được hưởng.”
6. Việc xác định người được bồi thường tổn thất về tinh thần
trên có phù hợp với các quy định hiện hành không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
-Việc xác định người được bồi thường tổn thất về tinh thần
trên là phù hợp với các quy định hiện hành. Những người mà HĐTP xác định được
hưởng bồi thường tổn thất tinh thần đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị
thiệt hại. Cách xác định của HĐTP là phù hợp với quy định tại Điểm a tiểu mục
2.4 mục II NQ 03 và Điều 610 BLDS.
7. Theo HĐTP, anh Đông có được hưởng bồi thường tổn thất về
tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm không? Đoạn nào của quyếtđịnh
cho câu trả lời.
- Theo HĐTP, anh Đông không được hưởng bồi thường tổn thất về
tinh thần do tính mạng của anh Nam bị xâm phạm.
- Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy
trang 297 : “Về xác đinh tư cách người tham gia tố tụng: sau khi anh Vũ Hoài
Nam bị chết, ngoài chị Nguyễn Thị Phin là người thân thích gần gũi nhất, thì
anh Nam còn có mẹ (bút lục 297). Như vậy, người đại diện hợp pháp của anh Nam gồm
có mẹ và vợ là chị Phin, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh để đưa mẹ anh
Nam tham gia tố tụng mà xác định anh Vũ Quốc Đông là em trai của anh Nam (chỉ
được chị Phin ủy quyền) là Điều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm. người
đại diện hợp pháp của người bị hại và quyết định buộc bị cáo, bịđơn dân sự bồi
thường cho gia đình anh Nam là chưa đầy đủ và chính xác.”
8. Theo HĐTP, mẹ anh Nam có được hưởng tồn thất về tinh thần
do tính mạng của cháu Hà và Quảng bị xâm phạm? Đoạn nào của Quyết định cho câu
trả lời.
- Theo HĐTP, mẹ của anh Nam không được hưởng tổn thất về
tinh thần
do tính mạng của cháu Hà và Quảng bị xâm phạm.
- Theo Quyết định số 10/2009/HS-GĐT, trong phần Xét thấy
trang 297: “Riêng khoản tiền bù đắp về tổn thất tinh thần do cháu Vũ Thu Hà và
cháu Vũ Văn Quảng bị thiệt hại về tính mạng thì chỉ có chị Phin (là mẹ của hai
cháu) được hưởng.”
9.
Suy nghĩ của anh/chị về quy định hiện hành và hướng giải
quyết trên của HĐTP liên quan đến tổn thất về tinh thần của anh Đông (đối với
cái chết của anh Nam) và của mẹ anh Nam (đối với cái chết của cháu Hà và Quảng).
- Hiện nay, pháp luật không công nhận việc yêu cầu người gây
thiệt hại về tính mạng phải bồi thường tổn thất tinh thần cho những người thân
thuộc hàng thừa kế thứ hai trở đi của người bị hại. Thấy rằng, khi có người bị
thiệt hại về tính mạng thì tất cả những người thân đều cảm thấy đau thương và
những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất thường là những người thân gần nhất của
người bị thiệt hại. Nhưng trên thực tế, có những trường hợp người thân thiết gần
gũi nhất của người bị thiệt hại không phải là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất.
Ví dụ: như người vợ sắp kết hôn (chưa đăng kí kết hôn), anh em kết nghĩa hay
ban bè cực kì thân thiết. Mức độ thân thiết với người bị hại của họ có thể còn
hơn cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Chắc chắn tổn thất tinh thần của
họ cũng rất lớn. Vậy, lý do gì mà họ không được hưởng bồi thường tổn thất về
tinh thần khi người thân của họ chết?
Hơn nữa, BLDS và NQ 03/2006 còn có quy định người mà người bị
thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệthại
chỉ được nhận bồi thường tổn thất tinh thần khi không có người thuộchàng thừa kế
thứ nhất của người bị thiệt hại về tính mạng.Có trường hợp người bị thiệt hại về
tính mạng còn cả những người thuộchàng thừa kế thứ nhất và người mà họ đã trực
tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc cả hai. Khi người thân chết
tổn thất về tinh thần của họ là không thể cân đo đong đếm được. Nếu chỉ yêu cầu
người gây thiệt hại bồi thường tổn thất cho những người thuộc hàng thừa kế thứ
nhất của người bị thiệt hại thì chưa đủ và cũng không phù hợp với tinh thần mà
pháp luật muốn hướng đến. Hoặc nếu người bị thiệt hại không còn những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất và cả người mà người bị Thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng,
người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại thì ai là người sẽ nhận được bồi
thường tổn thất tinh thần từ người bị hại? Chẳng lẽ những người thuộc hàng thừa
kế thứ hai trở đi hoặc những người thân khác mà không nằm trong “danh sách” của
Luật và Nghị quyết số 03/2006 cũng không được nhận bồi thường tổn thất về tinh
thần?
Từ đó cho thấy, những quy định hiện nay của pháp luật về bồi
thường tổn thất tinh thần cho người thân thích của người bị thiệt hại về tínhmạng
vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn xét xử.
- Đối với trường hợp về tổn thất về tinh thần của anh Đông
và của mẹ anh Nam, HĐTP không công nhận quyền được hưởng bồi thường tổn thất
tinh thần của anh Đông đối với cái chết của anh Nam và của mẹ anh Nam đối với
cái chết của hai cháu Hà và Quảng. Cách giải quyết của HĐTP phù hợp với những
quy định hiện hành nhưng trên thực
tế có lẽ không khả thi. Có người em nào không thấy đau buồn
khi anh ruột mình chết? Có người bà nào lại không thấy đau xót khi nhận cảnh“lá
xanh” rụng trước “lá vàng”? Rõ ràng, ít nhất họ cũng phải thấy đau lòng khi nhận
được thông tin về cái chết của những người thân của mình.
Vậy có thể thấy việc pháp luật không công nhận quyền hưởng bồi
thường tổn thất tinh thần của họ có vẻ không được khả thi và phù hợp với thực
tiễn.
10. Theo pháp luật hiện hành, mức bồi thường tổn thất về
tinh thần là bao
nhiêu khi tính mạng bị xâm phạm? Nêu cơ sở pháp lý.
- Theo Điều 610 BLDS và Điểm d tiểu mục 2.4 mục II NQ
03/2006/HĐTP
mức bồi thường tổn thất về tinh thần là do các bên thỏa thuận,
nếu không
thỏa thuận được thì mức bồi thường tối đa không quá 60 tháng
lương tối
thiểu do Nhà nước quy định.
11. Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm đã quyết định cho gia đình
chị Phin được hưởng mức bồi thường là bao nhiêu? Đoạn nào của Quyết định cho
câu trả lời?
- Tại bản án sơ thẩm, Tòa sơ thẩm đã quyết định: “buộc bà
Nguyễn Thị Thoại tiếp tục bồi thường số tiền 12.600.000 đồng và bị cáo Nguyễn
Quốc Sang bồi thường số tiền 2.000.000 đồng cho gia đình anh Vũ Hoài Nam (do
anh Vũ Quốc Đông đại diện); bà Nguyễn Thị Thoại cấp dưỡng, nuôi con anh Vũ Hoài
Nam (theo giấy khai sinh) mỗi tháng 200.000 đồng đến khi cháu tròn 18 tuổi.”
- Tại bản án phúc thẩm, Tòa phúc thẩm đã quyết định: “buộc
bà Nguyễn Thị Thoại bồi thường tổn thất về tinh thần cho vợ anh Nam số tiền
63.000.000 đồng (350.000 đồng/01 tháng x 180 tháng) và tiền mất thu nhập của
anh Nam 1.500.000 đồng/01 tháng x 6 tháng là 9.000.000 đồng; tổng cộng là
72.000.000 đồng (bảy mươi hai triệu đồng); ghi nhận
sự tự nguyện của bà Thoại trợ cấp để nuôi con của anh Nam là
cháu Vũ Anh Tuyết sinh tháng 9/2005 mỗi tháng 200.000 đồng, thời gian từ tháng
9/2005 cho đến khi cháu Tuyết đến tuổi trưởng thành.”
12. Hướng giải quyết của HĐTP liên quan đến mức tối đa gia
đình chị Phin được hưởng bồi thường tổn thất về tinh thần.
- Hướng giải quyết của HĐTP chưa thực sự rõ ràng về mức bồi
thường tối đa trong trường hợp này.
- Đoạn 3, phần Xét thấy: “khoản tiền bù đắp về tinh thần tòa
án cấp sơ thẩm chỉ buộc bà Thoại bồi thường là quá thấp, tòa án cấp phúc thẩm
buộc bà Thoại bồi thường cho cả 3 người chết là 180 tháng lương là mức cao nhất
cho mỗi người cũng chưa phù hợp với thực tế. mặc dù tổn thất về tinh thần đối với
người thân thích của anh Vũ Hoài Nam rất lớn, nhưng bị đơn dân sự không có lỗi
trong việc gây tai nạn, mặt khác ngoài việc bồi thường chi phí mai táng cho gia
đình anh Nam thì bị đơn dân sự còn bồi thường cho nhiều người bị hại khác, do
đó khi giải quyết khoản tiền bù đắp tổn thất tinh thần đối với gia đình anh Nam
ngoài việc xác định vị thế của người bị hại trong gia đình, thì tòa án cần xem
xét quyết định cho phù hợp với thực tế để đảm bảo khả năng thi hành án.”
13. Suy nghĩ của anh/chị về mức bồi thưởng tổn thất về tinh
thần trong pháp luật hiện hành và hướng giải quyết của các Tòa trong vụ việc
trên.
- Theo pháp luật hiện hành thì mức bồi thường bù đắp tổn thất
về tinh thần là do các bên thỏa thuận nếu không thỏa thuận được thì không quá
60 tháng lương tối thiểu (Điều 610 BLDS và 2.4 NQ 03) hướng xác định mức bồi
thường tối đa khi tính mạng bị thiệt hại là 60 tháng lương tối thiểu, thiết
nghĩ là quá thấp so với thực tế, nhất là với trường hợp tính
mạng bị xâm phạm. Chỉ với sáu mươi tháng lương tối thiểu thì
không thể đủ để bù đắp lại những tổn thất tinh thần mà những người thân thích của
người chết phải chịu đựng.
- Hơn nữa pháp luật cũng không rõ ràng về việc hiểu cụm từ
“không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định” như thế nào?
(Chỉ phân tích với trường hợp tổn thất tinh thần do tính mạng bị xâm phạm, còn
với những trường hợp còn lại, chúng ta hiểu tương tự).
+ Thứ nhất, không quá sáu mươi tối thiểu là chỉ tính với trường
hợp một người bị thiệt mạng hay nhiều người bị thiệt hại trong một gia đình? Thực
tế có nhiều luồng quan điểm xung quanh vấn đề này. Thiết nghĩ trong trường hợp
này nếu không thương lượng hai bên được thì tòa nên tuyên theo hướng nhân tiền
bồi thường lên theo số người thiệt mạng
trong một gia đình. Bởi chỉ cần một người thân chết đã là mất
mát, đằng này nhiều người thân mất thì nỗi đau ấy tăng gấp bội, không tiền bạc
nào so sánh được.
+ Thứ hai, với trường hợp người bị thiệt mạng có nhiều người
thân thuộc hàng thừa kế thứ nhất thì không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu
giành cho một người thuộc hàng thừa kế thứ nhất hay là tất cả những người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất? Nếu là giành cho nhiều người thuộc hàng thừa kế thứ nhất,với
trường hợp họ không tự thỏa thuận được thì sẽ phân chia khoản tiền được bồi thường
đó như thế nào?
+ Thứ ba, việc xác định mức lương tối thiểu do Nhà nước quy
định là như thế nào? Xác định với đối tượng
nào, với người bị xâm phạm tính mạng, hay của người thân thích nào, hay của người
nuôi dưỡng? Vì theo quy định của pháp luật, với mỗi đối tượng nhất định sẽ có mức
lương tối thiểu khác nhau nên sẽ có những mức bồi thường tối đa khác nhau. Phá
luật nên có những hướng dẫn cụ thể cách thức áp dụng mức lương tối thiểu để xác
định rõ ràng được mức bồi thường.
- Hai cấp tòa án đã không thống nhất trong việc áp dụng luật
mà luật lại không rõ ràng. Thiết nghĩ, nạn nhân của những tổn thất như vậy nên
được bảo vệ ở mức tối đa nếu có thể, không có gì có thể bù đắp được những đau
thương khi người thân của mình bị xâm phạm đến tính mạng. Pháp luật hiện hành
nên lựa chọn giải pháp có lợi nhất cho gia đình nạn
nhân nói cách khác tức là “đứng về phía gia đình nạn nhân chứ
không đứng về phía người có trách nhiệm bồi thường”.
- Quay lại vụ việc trên, theo tòa sơ thẩm là 36 tháng x
350.000đ là quá thấp bởi vì theo cách giải quyết của tòa thì quá bất công bằng
đối với gia đình nạn nhân, một người mất cũng như mười người mất khi tính mạng
bị xâm phạm. Còn tòa phúc thẩm, thì theo hướng khi một người bị xâm phạm tính mạng
thì những người thân được hưởng tối đa là 60 tháng lương tối thiểu, vì vậy nếu
có 3 người bị xâm phạm thì những người thân được hưởng tối đa là 180 tháng
lương tối thiểu. Cách giải quyết này là giải pháp tốt nhất cho gia đình người bị
thiệt hại
Vấn đề 4: Bồi thường thiệt hại trong hay ngoài hợp đồng
1. Những điểm khác nhau cơ bản giữa bồi thường thiệt hại
trong hợp đồng
và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
BTTH trong hợp đồng
|
BTTH ngoài hợp đồng
|
+ Trách nhiệm về việc vi phạm một nghĩa vụ mà các
bên đã cam kết thực hiện.
+ Nguồn gốc phát sinh là từ hợp đồng.
+ Nội dung bị chi phối một phần bởi hợp đồng.
+ Việc bồi thường thiệt hại không giải phóng người có
nghĩa vụ khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế.
+ Người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại trực tiếp và những thiệt hại có thể tiên liệu được khi kí hợp đồng. + Những người gây thiệt hại trong hợp đồng chỉ phải chịu trách nhiệm liên đới nếu có thỏa thuận trước. |
+ Trách nhiệm phát sinh dưới tác động trực tiếp của các
quy phạm pháp luật.
+ Nguồn gốc phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật. + Nội dung bị chi phối một phần bởi pháp luật. + Việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo nghĩa vụ ngoài hợp đồng thông thường sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ. + Người gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại (cả trực tiếp lẫn gián tiếp) cho người bị thiệt hại. + Những người gây thiệt hại ngoài hợp đồng đương nhiên phải chịu trách nhiệm liên đới. |
2.Trong hai vụ việc trên có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa
bên bị thiệt hại và bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại không? Vì sao?
- Trong hai vụ việc trên có tồn tại quan hệ hợp đồng giữa
bên bị thiệt hại và bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại.
- Đối với quyêt định 451/2011/DS-GĐT , quan hệ hợp đồng phát
sinh từ hợp đồng vay tiền giữa ông Đào Văn Nghinh và Ngân hàng nông nghiệp và
phat triển nông thôn Yên Đổ.
-Đối với Bản án 750/2008/DS-PT, quan hệ hợp đồng phát sinh từ
hành vi pháp lí đơn phương cụ thể là hoạt động khám chữa bênh của Bênh viện Y
Dược và bênh nhân là ông Bá,
3. Trong hai vụ việc trên, Tòa án đã theo hướng quan hệ giữa
các bên là BTTH trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng? Vì sao?
- Đối với quyêt định 451/2011/DS-GĐT: ngoài hợp đồng
+ Thiệt hại thực tế xảy ra: Ông Nginh bị tổn thất về tài sản
khi Ngân hàng tự ý phát mãi căn nhà của ông.
+Quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại:
Việc ngan hàng tự ý phát mãi đã khiến ông Nghinh trước nguy cơ mất nhà và đất.
+ Hành vi trái pháp luật: Việc ngân hàng tự ý phát mãi mà
không thông báo với gia đình ông Nghinh là vi phạm quy định của pháp luật
+ Lỗi: trong vụ việc này, phía ngan hàng được xác đinh là có
lỗi
Đối với Bản án 750/2008/DS-PT: trong hợp đồng
+ vì tòa án đã xác định ekipmoor không có hành vi vi phạm và
không có lỗi
4. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết của Tòa án
trong hai vụ việc trên về vấn đề xác định bản chất pháp lí ( trong hay ngoài hợp
đồng) quan hệ bồi thường giữa các bên?
- Đối với vụ việc trong quyêt định 451/2011/DS-GĐT, hướng giải
quyết của Tòa án trong về vấn đề xác định bản chất pháp lí là ngoài hợp đồng
quan hệ bồi thường giữa các bên là hoàn toàn hợp lí, đúng với quy đinh của pháp
luật về BTTH.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét