Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

Buổi thảo luận thứ 5: Trách nhiệm dân sự, vi phạm hợp đồng


BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG

VẤN ĐỀ 1 : BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG GÂY RA

Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo pháp luật Việt Nam?
 Trả lời:
“Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là trách nhiệm dân sự phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên, do đó bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng mà gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại mà mình đã gây ra cho phía bên kia tương ứng với mức độ lỗi của mình”[1] Từ đó, ta có thể hiểu căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là do hành vi vi phạm hợp đồng của một bên. Vậy, các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là:
- Có thiệt hại xảy ra: thiệt hại là toàn bộ những tổn thất gây ra cho một bên, do việc vi phạm hợp đồng của bên kia.
- Có hành vi vi phạm hợp đồng: việc xác định hành vi nào được xem là vi phạm hợp đồng phụ thuộc vào việc giải thích hợp đồng và các quy định pháp luật có liên quan.
- Có quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng với thiệt hại thực tế xảy ra: hành vi vi phạm hợp đồng phải là nguyên nhân dẫn đến thiệt hại thực tế xảy ra.
- Phải có lỗi của bên vi phạm: Lỗi là trạng thái tâm lí của một bên trong hợp đồng về nhận thức của họ đối với hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.Lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng là lỗi suy đoán.
Trong phần “nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật dân sự (sau đây gọi tắt là BLDS) có những quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng chính là một căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự, “không thực hiện đúng hợp đồng cũng là không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, các quy định về trách nhiệm dân sự do không thực hiện đúng nghĩa vụ dân sự (trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại) được áp dụng đối với việc không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng”[2]






Suy nghĩ của anh/chị về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường theo pháp luật Việt Nam (trên cơ sở so sánh với pháp luật nước ngoài)?
Trả lời:
Đối với pháp luật Việt Nam, Điều 303 Luật Thương Mại (sau đây goi tắt là LTM) có quy định về “Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại” như sau:.
“Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng;
2. Có thiệt hại thực tế;
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.
Trong BLDS 2005 không có quy định cụ thể về các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.Tuy nhiên, qua Điều 302 BLDS và Điều 307 BLDS, có thể suy ra rằng để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại thì phải có thiệt hại thực tế xảy ra. Riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, điều 604 có quy định như sau:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Qua đó có thể thấy LTM 2005 quy định rất rõ về các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng nhưng trong BLDS không nói rõ ràng để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì phải có những điều kiện nào.
Đối với pháp luật nước ngoài: “Các nước châu Âu đều theo hướng trách nhiệm bồi thường chỉ được chấp nhận khi bên có quyền có thiệt hại và theo Bộ nguyên tắc châu Âu về hợp đồng cũng theo hướng: “Không có bồi thường khi không có thiệt hại”[3].

3.Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại nào? Nêu rõ đoạn của bản án liên quan đến từng khoản thiệt hại được bồi thường
Trả lời:
Tòa án buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình khoản tiền tương đương giá trị căn hộ theo giá của Hội đồng định giá và thiệt hại tiền thuê nhà.
 Trong bản án số 11/2010/DS-ST ngày 27/4/2010 tại trang số 08 có đoạn như sau:
“… như đã phân tích tại phần trên bà Bình không vi phạm nghĩa vụ thanh toán, việc buộc công ty Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ theo giá của Hội đồng định giá là cũng đảm bảo quyền lợi của bà Bình nên có căn cứ được chấp nhận…”.
Cũng trong bản án nêu trên, tại trang số 09 có đoạn như sau:
“... như phân tích ở trên, việc bà Bình đi thuê nhà ở là có thực và đây là thiệt hại thực tế, bà Bình không có vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu của Bình buộc công ty Bitexco phải bồi thường khoản tiền mà bà Bình đã thanh toán tiền thuê nhà 22.000 Đô la Mỹ tương đương 418.000.000 đồng...ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật là hoàn toàncó căn cứ được chấp nhận.”.

4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Trả lời:
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án là hợp lý. Việc Tòa án buộc công ty Bitexco phải bồi thường giá trị căn hộ theo giá của hội đông định giá đã giúp bà Bình đảm bảo quyền lợi của mình trong tranh chấp. Theo nhận định và căn cứ đưa ra trước Tòa, bà Bình không có hành vi vi phạm nghĩa vụ thanh toán, và “phía công ty Bitexco, bà Bình và Ngân hàng ngoại thương Việt Nam cùng thống nhất hủy hợp đồng”, việc hủy hợp đồng mua bán là phù hợp nên khoản bồi thường là hợp lý căn cứ theo Khoản 2 Điều 307 BLDS quy định như sau:
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.
 Đối với khoản thiệt hại về tiền thuê nhà, hướng giải quyết của Tòa án cũng là hợp lý. Dù khoản thiệt hại này xuất hiện trước khi có hành vi hủy hợp đồng, tuy nhiên giữa chúng có mối quan hệ nhân quả. Do hợp đồng không tiếp tục được thực hiện nên khoản tiền thuê nhà được xem là khoản tiền thiệt hại mà bà Bình chịu tổn thất, là khoản thu nhập bị giảm sút của bà Bình.

5. Đoạn nào cho thấy bà Bình có yêu cầu bồi thường tổn thát về tinh thần?
Trả lời:
            Trong bản án số 11/2010/DS-ST ngày 27/4/2010 tại trang số 11 có đoạn như sau:
            “Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Bình ... thì ngoài những yêu cầu đã xem xét ở trên bà Bình còn có yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất ... và bồi thường thiệt hại tinh thần do chất lượng căn hộ không bảo đảm gây ảnh hưởng về tâm lý là 16.000.000 đồng...”.

6. Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng không? Vì sao?
Trả lời:
            Bộ Luật dân sự quy định vể trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về vật chất lẫn thiệt hại về tinh thần (Điều 307 BLDS). Quy định này áp dụng cho nghĩa vụ dân sự nói chung nên cũng được áp dụng cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 điều chỉnh về hợp đồng có quy định về vấn đề thiệt hại được bồi thường, theo đó phải có “thiệt hại thực tế”, tức là có thể không chỉ có thiệt hại vật chất mà còn có cả thiệt hại tinh thần.
Vậy, tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng.

7. Văn bản hiện hành có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
            Luật Thương mại năm 2005 có quy định bồi thường thiệt hại về tinh thần phát sinh khi không thực hiện đúng hợp đồng. Căn cứ Điều 302 LTM quy định “Bồi thường thiệt hại” như sau:
            “1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”.
            Đối với Bộ Luật dân sự, hiện vẫn chưa có quy định về vấn đề này.


VẤN ĐỀ 2 : PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG

1. Điểm mới của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995 về phạt vi phạm hợpđồng.
Trả lời:
Bộ luật dân sự năm 1995
Bộ luật dân sự năm 2005
Điều 377. Phạt vi phạm
1. Phạt vi phạm là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được áp dụng theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên có quyền bị vi phạm.
2. Thoả thuận về phạt vi phạm phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính.
Điều 378. Mức phạt vi phạm
Mức phạt vi phạm có thể là một khoản tiền nhất định hoặc được tính theo tỉ lệ phần trăm của giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, nhưng mức cao nhất không quá 5%.
Điều 379. Quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
1. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại, thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
2. Khi các bên có thoả thuận về việc lựa chọn biện pháp phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại, thì quyền lựa chọn thuộc về bên có quyền bị vi phạm.
3. Trong trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về phạt vi phạm mà không thoả thuận trước hoặc pháp luật không có quy định về bồi thường thiệt hại, thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.

Ðiều 422. Thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm
1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bị vi phạm.

2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận.

3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.


      - Về tính chất: Phạt vi phạm không còn được xem là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự nữa, mà là một nội dung của hợp đồng (Khoản 1 Điều 422 BLDS năm 2005)
- Vê mức phạt vi phạm: hoàn toàn do các bên thỏa thuận, không bị giới hạn (như trong BLDS 1995, mức phạt bị giới hạn là 5% giá trị hợp đồng).
- Về quyền lựa chọn phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại: không còn được quy định quyền lựa chọn thuộc về bên vi phạm như trong BLDS 1995.

Đối với vụ việc thứ nhất
Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời:
- Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên.
- Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
- Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc phạt cọc), và không căn cứ vào thiệt hại thực tế.

Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời:
Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc. Tuy nhiên đối với kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn bồi thường khoản tiền này với căn cứ là Khoản 2 Điều 358 BLDS, Tòa phúc thẩm đã bác bỏ, với nhận xét: “… trong trường hợp này, rõ ràng phía bị đơn không từ chối thực hiện hợp đồng, trái lại đã đi vào thực hiện hợp đồng thông qua việc giao hàng cho nguyên đơn sau khi nhận tiền cọc. Tranh chấp phát sinh khi các bên đã đi vào giai đoạn thực hiện hợp đồng, phía bị đơn yêu cầu thay đổi đơn giá, hai bên thương lượng không đạt dẫn đến việc khởi kiện đến Tòa án”.

Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản tiền trả trước 30%?
Trả lời:
Theo em, cách giải quyết của Tòa án là chưa hợp lí và thiếu thống nhất trong cách giải quyết. Về khoản tiền trả trước 30%, Tòa án đã xác định đây là tiền đặt cọc dựa trên khoản 7 Điều 292 Luật Thương mại và Điều 358 Bộ luật Dân sự. Khoản tiền này dùng để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó Tòa án lại nhận định rằng 2 bên đã đi vào thực hiện hợp đồng cho nên khoản tiền 30% đươc xác định là khoản tiền dùng để thưc hiện đơt giao hàng lần thứ nhất dẫn đến  viêc Tòa án bác bỏ kháng cáo của nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn bồi thường khoản tiền này với căn cứ là Khoản 2 Điều 358 BLDS. Cách giải quyết nhiều mâu thuẫn như trên của Tòa án đã khiến quyền và lợi ích họp pháp của nguyên đơn không được đảm bảo.

Đối với vụ việc thứ hai
Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn như thế nào?
Trả lời:
Trong Quyết định của Trọng Tài tại trang số 2 có đoạn như sau:
“… mức phạt Hợp đồng 30% giá trị của hợp đồng là cao so với quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Thương mại quy định mức phạt hợp đồng không quá 8% giá trị của Hợp đồng, do vậy Bị đơn sẽ chỉ phải thanh toán cho nguyên đơn khoản tiền phạt theo luật là 8% giá trị của Hợp đồng…”
Ta thấy, trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn theo Luật thương mại chứ không theo hợp đồng. Cụ thể, Điều 301 Luật thương mại Việt Nam 2005 quy định mức phạt vi phạm: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.”
Như vậy, trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới hạn là không quá 8%  giá trị của hợp đồng.

So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
So với văn bản, mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định có thuyết phục.Trước hết, Tòa đã dựa vào Điều 301 Luật thương mại Việt Nam 2005 quy định về “mức phạt vi phạm” như sau:
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”.
Tuy nhiênvì mức thỏa thuận cao hơn nên Tòa lấy giá trị 8% là phù hợp, đảm bảo quyền lợi cho bên vi phạm. Mặc dù khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 có quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên quy định.” Quy định về mức phạt trong BLDS để cho thấy các bên được tự do về mức phạt còn việc viện dẫn Luật thương mại cho thấy các bên bị giới hạn trong việc định đoạt mức phạt. Do vậy, Luật thương mại được ưu tiên hơn.
Vậy, theo Luật Thương mại thì mức giới hạn phạt vi phạm trong Quyết định là đúng pháp luật, thuyết phục.Tuy nhiên, căn cứ theo Khoản 2 Điều 422 BLDS quy định “Thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm” như sau: “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận”; thì Quyết định này lại trái với quy định trong pháp luật dân sự.

Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng không được kết hợp với bồi thường thiệt hại nếu các bên không thỏa thuận về vấn đề này.
+ Cơ sở pháp lý:
Căn cứ theo Khoản 3 Điều 422 BLDS quy định về “Thực hiện hợp đồng có thỏa thuận phạt vi phạm” như sau:
3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.”.
Vậy, nếu hai bên không có thỏa thuận gì về việc kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm.
Tuy nhiên, căn cứ theo Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 quy định về “Mức phạt vi phạm” như sau:
Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”
và Khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại 2005 quy định về “Quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại” như sau:
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Tức là theo Luật Thương mại, phạt vi phạm hợp đồng có quyền được kết hợp với bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.

Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Trong Quyết định trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
            Trong Phán Quyết Trọng tài tại trang số 2 có đoạn như sau:
            “… Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại…HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.

5.Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng.
Trả lời:
- Điểm giống nhau: cả phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được coi là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm hợp đồng. cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế và phải có lỗi của bên vi phạm. Mục đích của việc quy định cũng như áp dụng biện pháp này là nhằm ngăn ngừa sự vi phạm hợp đồng.
- Điểm khác nhau: 

Phạt hợp đồng
Bồi thường thiệt hại
Cơ sở để áp dụng
Phải có sự thỏa thuận của các chủ thể về việc áp dụng biện pháp phạt hợp đồng.
Không cần có thiệt hại do hành vi vi phạm cũng có thể áp dụng
Không cần có sự thỏa thuận.
Biện pháp này sẽ được áp dụng khi có hành vi vi phạm gây ra thiệt hại cho chủ thể bị vi phạm trên thực tế.
Mục đích chủ yếu
Ngăn ngừa vi phạm
Khắc phục hậu quả thiệt hại do vi phạm
Mức độ thiệt hại về vật chất của người bị áp dụng
Do thỏa thuận của các bên. Tối đa không quá 5% - 8% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm.
Tùy theo mức độ thiệt hại. Thiệt hại được tính bao gồm cả thiệt hại thực tế và trực tiếp do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra, những khoản lợi mà người bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.



Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm hợp đồng với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Vì sao?
Trả lời:
            Theo văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn.
Vì:
Căn cứ Khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại 2005 quy định về “Quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại” như sau:
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
            Vậy, theo Bộ luật quy định mức vi phạm do các bên thỏa thuận, nghĩa là pháp
luật đã giới hạn mức phạt chính bằng mức mà các bên thỏa thuận.

Theo Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm với bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trong Quyết định về vấn đề này.
Trả lời:
Trong Quyết định trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại có bị giới hạn.
            Trong Phán Quyết Trọng tài tại trang số 2 có đoạn như sau:
            “…Tuy nhiên, Điều 301 luật thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo ra bất ngờ cho Bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị hợp đồng”.
            Hướng giải quyết của Tòa khá thuyết phục, đảm bảo quyền lợi của bên bị vi phạm, phù hợp với các điều khoản được nêu trên. Tòa tôn trọng quyền tự do quyết định trong giao kết hợp đồng, quyền thỏa thuận vi phạm hợp đồng và Tòa đã xem xét để đúng với quy định của pháp luật.

Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam.
Trả lời:
Việc viện dẫn một lúc hai văn bản về mức vi phạm này rất khó hiểu. Biệnpháp phạt vi phạm được thiết lập vì lợi ích của bên bị vi phạm do đó bên bị vi phạm lựa chọn hay kết hợp với bồi thường thiệt hại để đảm bảo quyền lợi của mình. Tuy nhiên, mức phạt đó phải không quá mức thỏa thuận. Việc Tòaán áp dụng hai chế tài này là phù hợp, quyền lợi bên bị vi phạm được bảo vệ.Xong, vấn đề đặt ra là nên áp dụng văn bản nào để thuyết phuc, đảm bảo quyền lợi cho các đương sự, Tòa đã áp dung văn bản là Luật thương mại.Theo em nghĩ, hướng giải quyết của Tòa là phù hợp vì không những đảm bảo quyền lời của bên bị vi phạm mà đảm bảo quyền của bên vi pham.
           

VẤN ĐỀ 3 : SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG

Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi.
Trả lời:          
            Căn cứ theo Điểm b Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 quy định “Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm” thì trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm.
            Căn cứ theo Khoản 2 Điều 302 BLDS quy định “trách nhiệm dân sự do vi  phạm nghĩa vụ dân sự” như sau:
            “2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”,
            và Khoản 3 Điều 546 BLDS quy định “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại” trong Hợp đồng vận chuyển tài sản như sau:
            “3. Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.

Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
Trả lời: Trả lời:
                 Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng hay không chúng ta cần xem xét và phân tích các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng.Đoạn 2 khoản 1 Điều 161BLDS 2005 quy định: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.”
-Như vậy, theo Bộ luật sự kiện bất khả kháng phải thỏa mãn ba điều kiện sau:
+ Thứ nhất: Đây phải là “Sự kiện xảy ra một cách khách quan”.
+ Thứ hai: Đây phải là sự kiện “Không thể lường trước được”.
+ Thứ ba: Sự việc xảy ra “Không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
-  Xét vụ việc cần bình luận ta thấy:
+ Thứ nhất: Gió là sự kiện xảy ra một cách khách quan.
+ Thứ hai: Tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng tuy là sự kiện khách quan nhưng thật sự không thể lường trước được hay không thì bản án không nói rõ. Nhưng nếu thông tin đại chúng có cho biết là có gió lớn, nguy cơ có thể xảy ra thiệt hại vào thời điểm này thì dường như điều kiện này không thỏa mãn.
+ Thứ ba: Tàu chìm làm hàng hư hỏng toàn bộ có thật sự “Không thể khắc phục được”
hay không bản án cũng không nói rõ. Nếu biết rõ thiệt hại xảy racó thể tránh được, hạn chế được, khắc phục được phần nào thiệt hại mà bên vận chuyển cứ để mặc cho thiệt hại xảy ra thì điều kiện này dường như không được thỏa mãn.
-
Dựa vào những phân tích trên, theo em, sự kiện này là sự kiện bất khả kháng.
            .

Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
            Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn không phải bồi 
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng.
+ Cơ sở pháp lý cho câu trả lời:
Khoản 2 Điều 302 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả thuậnkhác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Khoản 3 Điều 546 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất mát, hư hỏng hoặc bị huỷ hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Khoản 1 Điều 20 Nghị định 125/2003/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm
2003 về vận tải đa phương thức quốc tế quy định: “Điều 20. Miễn trừ trách nhiệm.Mặc dù có quy định tại khoản 1 Điều 16, khoản 1 và khoản 4 Điều 18Nghị định này, người kinh doanh vận tải đa phương thức không phải chịutrách nhiệm về mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm đối với hàng hoáđược vận chuyển nếu chứng minh được việc gây nên mất mát, hư hỏng hoặc giao trả hàng chậm trong quá trình vận chuyển là do một hoặc nhiềunguyên nhân sau đây:1. Bất khả kháng;..”.

Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn bản và thực tiễn xét xử.
Trả lời:
Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn thỏa thuận bồithường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn được yêu cầu Công
ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này.
+ Cơ sở pháp lí:
Điều 580 BLDS 2005 quy định:
“1. Trong trường hợp bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm hoặc cho người thứ ba theo yêu cầu của bên mua bảo hiểm đối với thiệt hại mà bên mua bảo hiểm đã gây ra cho người thứ ba theo mức bảo hiểm đã thoả thuận hoặc theo quy định của phápluật.
2. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm đã bồi thường thiệt hại cho người thứ ba thì có quyền yêu cầu bên bảo hiểm phải hoàn trả khoản tiền mà mình đã trả cho người thứ ba, nhưng không vượt quá mức trả bảo hiểm mà các bên đã thoả thuận hoặc pháp luật đã quy định.”
           Tuy vậy, thực tiễn xét xử vấn đề này có hai quan điểm trái ngược nhau.
Cụ thể được nêu tại hai bản án sau:
- Bản án số 110/2006/DSPT ngày 5/5/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh. (Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb CTQG 2001(tái bản lần ba), Bản án số 77, tr. 376 đến 379).

+ Bản án được tóm tắt như sau:
Anh Lê Văn Khen nhận chở thuê hàng bằng đường thủy. Anh Khen có mua bảo hiểm thân tàu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên đường vận chuyển, tàu bị gió lốc nhấn chìm và gây thiệt hại đến tài sản hàng hóa. Trong hợp đồng nhận chuyển hàng, anh Khen thỏa thuận chịu trách nhiệm trường hợp này và đã bồi thường cho chủ hàng anh chở thuê số tiền 40.950.000 đồng. Nay anh yêu cầu công tuy Bảo Việt Trà Vinh phải bồi hoàn lại cho anh mà anh thay Công ty bồi thường cho các
chủ hàng anh chở thuê.Tại bán án này, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh khẳng định việc gây thiệt hại cho các chủ hàng là do hiện tượng bất khả kháng. Nhưng theo Tòa, anh
Khen tự nguyện nhận bồi thường nên anh phải gánh chiu hậu quả.Mặt khác, Quyết định số 105/GĐT-DS ngày 30/5/2003 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao tỉnh An Giang. (Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb CTQG 2001(tái bản lần ba), Bản án số 77, tr. 376 đến 379).
+ Bản án được tóm tắt như sau:
Ông Khóm nhận chuyển 2.600 con vịt cho ông Điền và ông Trình bằng tàu của ông. Ông khóm tham gia bảo hiểm dân sự của chủ tàu và trong hợp đồng có nêu rõ điều kiện bảo hiểm dân sự của chủ tàu, thuyền. Theo phạm vitrách nhiệm bảo hiểm thì Bảo Việt nhận trách nhiệm bồi thường mất mát, hưhỏng hàng hóa, tài sản chuyên chở trên tàu, thuyền được bảo hiểm. Trên đường vận chuyển, do mưa gió to, nước chảy mạnh, tàu va vào chân cầu bị chìm làm tổn thất trị giá đến 79.100.000 đồng số tiền vịt. Vì ông Khóm thỏa thuận trong hợp đồng với ông Trình ông Điền nên đã bồi thường số tiền trên.Nay ông Khóm yêu cầu Bảo Việt hoàn trả ông số tiền nói trên.Về vụ việc trên, theo Tòa vì các bên có nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm nói trên và theo Điều 546 BLDS 2005 vẫn cho phép người vận chuyển và bên thuê vận chuyển được thỏa thuận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngay cả trong trường hợp bất khả kháng. Do đó, thỏa thuận giữa ông Khóm và ông Trình, ông Điền là không trái pháp luật, có hiệu lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang. Mặt dù Bảo Việt cho rằng theo Điều 30 Thể lệ vận chuyển và xếp dỡ hàng hóa thủy nội địa thì bên vận chuyển được miễn bồi thường trong trường hợp thiên tai, địch họa hay bất khả kháng. Hơn thế nữa, theo Tòa cho thấy thế mạnh thuộc về bên Bảo Việt và các thuật ngữ hay giải thích trong hợp đồng phải có lợi cho bên yếu thế. (Theo khoản 8 Điều 409
quy định: “Trong trường hợp bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế thì khi giải thích hợp đồng phải theo hướng có lợi cho bên yếu thế.”). Do đó, Bảo Việt phải có trách nhiệm bảo hiểm cho ông Khóm.
Thiết nghĩ, để uy tín trong các quan hệ tương tự như trên, tốt hơn hết các
bên nên nêu rõ trong hợp đồng bảo hiểm là có hay không bảo hiểm trong
trường hợp thiệt hại do sự kiện bất khả kháng.

VẤN ĐỀ 4 : TÌM KIẾM BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN CHẬM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ THANH TOÁN

Nội dung vụ việc:
Tháng 3 năm 1999 ông Đào Xuân Yết và bà Đặng thị Minh Hương có thoả thuận miệng về việc mua bán phân bón.Từ ngày 23/3/1999 đến ngày 14/5/1999 bà Hương đã nhận của ông Yết 452 tấn phân bón trị giá 1.059.519.000 cam kết trả số tiền trên trong khoảng thời gian 10 ngày.(8/6/1999 đến 18/6/1999)
Ngày 8/6/199 ông Yết và bà Hương ký hợp đồng mua bán với nội dung:Bên B thanh toán cho bên A bằng chuyển khoản hoặc bằng tiền mặt, chậm nhất là 30ngày kể từ ngày nhận hàng. Nếu bên B nợ quá hạn thì bên A sẽ phải tính lãi xuất 1.5%/tháng.
Để đảm bảo việc trả nợ này bà Hương và Ông NGuyễn Văn Định (chồng bà Hương) đã ký hợp đồng thế chấp tài sản có xác nhận của UBND huyện Đắc Mil. tỉnh Đắc Lăk (Đắc Nông)bao gồm: 2480m2 đất thổ cư, 200m2 đất rẫy cà phê trồng năm 1993, 19.472m2 đất rẫy cà phê trồng năm 1995, 950m2  đất trồng màu.
Số tiền nợ được bà Hương trả dần thành từng đợt như sau:
- Ngày 30/6/1999 trả 84.640.000đồng, ngày 31/7/1999 trả 119.300.000, ngày 31/8/1999 trả them 31.000.000 còn nợ vốn và lãi là: 819.319.000đồng.
- Ngày 8/10/1999 bà Hương làm giấy khất nợ với số nợ là 659.116.000 đồng và cam kết từ ngày 8/10/1999 đến 20/12/1999 sẽ thanh toán 459.116.000 đồng. số tiền 200triệu còn lại đến ngày 30/12/1999 sẽ thanh toán dứt điểm.
Trong thời gian đó, cuối tháng 2/2000 vợ chông bà Hương đã bán một số tài sản thế chấp cho ông Yết, cụ thể như sau: Ngày 28/2/2000 sang nhượng cho bà Nguyễn Thi Phương và ông Trương Hùng Oanh 372m2 diện tích đất thổ cư với giá 33 cây vàng. Ngày 2/6/2000 tiếp tục sang nhượng 310m2 diện tích đất thổ cư với giá 30 cây vàng cho bà Trương Thị Lý và ông Nguyễnm Văn Sương. Cả hai bên đã thanh toán đầy đủ cho vợ chồng bà Hương.
Do vợ chồng bà Hương không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết trong giấy khất nợ ngày 8/10/1999 nên ngày 12/2/2001, ông Yết có đơn kiện yêu cầu Vợ chồng bà Hương phải thanh toán 456,080,000 đồng tiền gốc và lãi suất theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản hoà giải ngày 5/3/2001 ông Yết và bà Hương thống nhất: Bà Hương trả cho ông Yết 551.856.800 đồng trong đó tiền gốc là 456.080.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 1/1/2000 là 95.776.800 đồng. Sau khi bà Hương thanh toán cho ông Yết 15.000.000 đồng thì ông Yết sẽ tiến hành làn thủ tục tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà phưong và bà Lý.
Tại quyết định công nhận sự thoả thuận của các bên đương sự số 11/QĐHGT ngày 20/3/2001, TAND huyện Đắc Mil quyết định: công nhận sự thoả thuận của các đương sự như sau:Vợ chông bà Hương có nghã vụ thanh toán cho ông Yết số tiền 551.027.992 đồng.
Tại quyết định số 417 ngày 9/7/2003, VTVKSND tỉnh Đắc Lăk kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm quyết định số 11/QĐHGT ngày 20/3/2001 của TAND huyện Đác Mil với nhận định: Nội dung của quyết định trên không đúng với nội dung biên bản hào giải thành ngày 5/1/2001, ra quyết định số 12/DS ngày 17/12/2003 tuyên bố huỷ toàn bộ quyết định số 11/QĐHGT của TAND huyện Đắc Mil, giao hồ so vụ án cho Toà Dân sự TAND tỉnh Đắc Lăk giải quyết theo trình tự sơ thẩm.
Trên thực tế sau khi quyết định hoà giải thành ngày 5/3/2001 có hiệu lực, vợ chồng ông Định đã thanh toán cho ông Yết 201.200.000 đồng tiền vốn và lãi suất chậm trả theo quy định của pháp luật.
Nay ông Yết kiện ra toà bà Hương yêu cầu được trừ số tiền 201.200.000 đồng vào nợ gốc 456.080.000 đồng và chấp nhận trả số nợ còn lại cùng lãi xuất theo quy định của pháp luật nhưng ông Yết không đồng ý. Đồng thời những người có quyền nghĩa vụ liên quan là vợ chồng bà Phương và bà Lý cũng yêu cầu ông Yết tiến hành tách giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thoả thuận vì ngay khi có quyết định của TAND huyện Đác Mil bà phương đã đưa cho bà Lý 129.800.000 đồng, bà Lý đưa 85.000.000 đồng để bà Hương trả cho ông Yết.
Cách giải quyết của Tòa án:
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1/2004/DSST ngày 9/6/2004 TAND tỉnh Đắc Nông quyết định:  bác yêu cầu của bà Hương, bà Lý và bà Phương. Buộc vợ chồng bà Hương phải trả cho ông Yết số tiền 325.462.851 đồng, trong đó tiền gốc là 208.279.562 đồng, số tiền lãi là 117.183.283 đồng và bác yêu cầu của bà Lý, bà Phương. Hai người có thể kiện đòi bà Hương số tiền 214.814.000 đồng.
Ngày 16/6/2004 vợ chồng bà Hương có đơn kháng cáo yêu cầu chỉ tính lãi đến ngày 5/3/2001.Cùng ngày bà Lý và bà Phương có đơn kháng cáo xin hưởng quyền lợi theo lời hứa của ông Yết trong biên bản thoả thuận. Ngày 22/6/2004 ông Yết có đơn kháng cáo với nội dung: yêu cầu với số nợ gốc 424.916.000 đồng phải được tính lãi từ ngày 14/6/1999 đến 9/6/2004 (ngày xét xử sơ thẩm) với mức lãi xuất 1,5 %/tháng.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 67 ngày 4/11/2004, Toà Phúc thẩm TANDTC tại Đà Nẵng vẫn giữ nguyên bản án sơ thẩm chỉ khác số tiền lãi ông bà Hương phải trả cho ông Yết là 44.135.253 đồng.
Sau khi xét cử phúc thẩm ông Yết có đơn khiếu nại với nội dung: yêu cầu toà tính lãi từ ngày 14/6/1999 (ngày đến hạn thanh toán sau khi đối chiếu công nợ) đến ngày 9/6/2004 (ngày xét xử sơ thẩm) để đảm bảo quyền lợi cho ông. Tại Quyết định số 22/KNDS ngày 12/4/2005 Chánh án TANDTC đã quyết định kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị hội đồng thẩm phán TANDTC xét xử giám đốc thẩm, huỷ bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho toà phúc  thẩm TANDTC tại Đà Nẵng xét xử lại theo quy định của pháp luật. Đây cũng là ý kiến của đại diện VKSNDTC.
 Nhận xét  của nhóm:
-Theo hướng dẫn tại điểm b, mục 1 phần 1 của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19/6/1997 của TANDTC, VKSNDTC, bộ tư pháp, bộ tài chính “ hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản ” thì “Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngoài khoản tiền mà người có nghĩa vụ phải thanh toán họ còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm”. Trong vụ án này toà án cấp phúc thẩm chỉ tính lãi đến ngày 5/3/2001 là không đúng theo quy định trên mà phải tính lãi đến khi xét xử sơ thẩm (ngày 9/6/2004). Như vậy xét thấy đơn khiếu nại của ông Yết là có căn cứ pháp lý và phải được giải quyết.
- Khi giải quyết lại vụ án cấp phúc thẩm cần xác minh làm rõ việc chốt nợ lần cuối cùng hai bên thpả thuận như thế nào về số nợ, thời hạn trả nợ, thời hạn trả nợ và lãi suất để xác định thời hạn trả nợ và mức lãi xuất chậm trả. Nếu khi chốt nợ lần cuối cùng hai bên không thoả thuận lãi xuất chậm trả, thì lãi xuất chậm trả được áp dụng theo quy định của BLDS, nhưng không được cao quá 1,5%/ tháng vì ông Yết chỉ yêu cầu tính lãi 1,5%/tháng và tiền lãi phải tính trên nợ gốc.
- Theo lời khai của bà Lý và bà Phương về số tiền 214.814.000 đồng hai bà đưa cho bà Hương để bà Hương trả cho ông Yết. Các toà cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa xác minh làm rõ vấn đề này đã bác đơn yêu cầu của bà Lý và bà Phương là không có căn cứ. Do cần phải huỷ toàn bộ bản án phúc thẩm để xét xủ phúc thẩm lại theo quy định của pháp luật và do quyết định của toà án cấp sơ thẩm này về vấn đề bị kháng cáo của họ và xác minh làm rõ bà Phương bà Lý có đưa tiền cho bà Hương trả cho ông Yết thật hay không? Nếu có thì phải giải quyết yêu cầu để đảm bảo quyền lợi cho họ. Vì xét thấy căn cứ vào các quy định tại khoản 3, điều 342, khoản 4, điều 718 BLDS 2005 thì bà Hương  chỉ có quyền chuyển nhuợng quyền sử dụng đất của mình đã đem thế chấp cho ông yết trong trường hợp được sự đồng ý của ông Yết. Ở đây ông Yết hoàn toàn không biết về vấn đề này do vậy việc làm của bà Phương là trái pháp luật và giao dịch giữa bà Hương với bà Lý và bà Phương bị vô hiệu (do bị lừa dối). Do vậy về nguyên tác bà Hương không những phải trả số tiền 214.800000 cho bà Lý và bà Phương mà còn phải hoàn trả cả số vàng đã nhận trước đó.





[1] Lê Nết, Tập bài giảng Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Khoa Luật dân sự, ĐH Luật TP.HCM, tr. 402.
[2] Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb.CTQG (tái bản lần thứ 2), 2010, tr. 572.
[3] Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, Nxb.CTQG (tái bản lần thứ 2), 2010, tr. 574.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét