Vấn đề 1: Im lặng trong giao kết hợp đồng
1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy anh Đạt đã thế chất tài sản cho ngân
hàng?
- Theo Quyết định 439/2011/DS-GĐT ngày 16-6-2011 có nêu: “Hai bên thỏa
thuận ông Nâu đem tiền đến trả Ngân hàng, lấy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất về thì ông Nâu sẽ giao đủ tiền và sẽ tiến hành làm thủ tục chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật”; điều này cho thấy anh Đạt đã thế
chấp Ngân hàng một khối tài sản.
1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy anh Đạt đã thế chất tài sản cho ngân
hàng?
- Theo Quyết định 439/2011/DS-GĐT ngày 16-6-2011 có nêu: “Hai bên thỏa
thuận ông Nâu đem tiền đến trả Ngân hàng, lấy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất về thì ông Nâu sẽ giao đủ tiền và sẽ tiến hành làm thủ tục chuyển
nhượng theo quy định của pháp luật”; điều này cho thấy anh Đạt đã thế
chấp Ngân hàng một khối tài sản.
2. Đoạn nào của quyết định cho thấy tài sản của anh Đạt thế chấp cho ngân
hàng là khối tài sản chung của vợ chồng anh đạt, chị linh?
- Theo quyết đinh 439/2011/DS-GĐT ngày 16-6-2011 có nêu: “Tuy nhiên,
khối tài sản anh Đạt thế chấp cho ngân hàng là khối tài sản chung của anh
Đạt và chị Linh (vợ của anh Đạt), nhưng các hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nêu trên mới chỉ có chữ ký của anh Đạt nên cũng cần
phải xem xét chị Linh có biết việc chuyển nhượng hay không?”
3. Việc thế chấp trên có cần sự đồng ý của chị Linh không? Vì sao? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Do mảnh đất trên là tài sản chung hợp nhất nên cả anh Đạt và chị Linh đều có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung này . Vì vậy, anh Đạt không thể một mình tiến hành thủ tục chuyển nhượng, tặng,cho … mảnh đất trong khối tài sản chung hợp nhất của cả hai vợ chồng mà không có sự đồng ý của chị Linh và cũng không có văn bản thỏa thuận chia tài sản chung có chữ ký của cả hai vợ chồng.
Cơ sở pháp lí:Khoản 2,khoản 3 BLDS 2005
2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.
3. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.”
4. Theo BLDS và thực tiễn xét xử khi nào im lặng được coi là chấp nhận
(đồng ý) hợp đồng?
- Theo khoản 2, điều 404 BLDS 2005 quy định thì hợp đồng dân sự cũng
được xem như giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị
vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết.
-Theo thực tiễn xét xử tại Việt Nam, sự im lặng không đủ để suy luận sự đồng ý hay không đồng ý chấp nhận hợp đồng. Tòa án sơ thẩm hay phúc thẩm không thể kết luận ngay hợp đồng không có giá trị pháp lý khi chưa xác định rõ ý chí của người giữ im lặng. Tuy nhiên, sự im lặng có thể là một biểu hiện của sự chấp nhận nếu tồn tại yếu tố khác. Sau đây là các yếu tố cho phép suy luận đã có sự chấp nhận hợp đồng:
+ Yếu tố thứ nhất có thể là việc bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng nhưng sau đó yêu cầu bên kia thực hiện hợp đồng. VD theo Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30/05/2003 của HĐTP TANDTC, ông Lung là chủ sở hữu diện tích 120m2 nhà trên diện tích 1199m2 đất. Vào ngày 24/09/1999, ông Lung thỏa thuận bán căn nhà trên cho vợ chồng ông Thọ. Năm 2000, hai bên xảy ra tranh chấp. Khi sự việc chưa được giải quyết thì ông Lung chết. Trong hợp đồng không có chữ ký của bà Hiền vợ ông Lung. Theo Viện kiểm sát, đây là việc bán nhà thuộc sở hữu của vợ chồng mà chưa có sự đồng ý của bà Hiền. Nhưng theo HĐTP:”Mặc dù bà Hiền là vợ ông Lung không ký hợp đồng mua bán nhà với ông Thọ nhưng bà Hiền không những không có ý kiến phản đối và còn yêu cầu ông Thọ thực hiện hợp đồng đã ký với ông Lung, nên không có căn cứ cho rằng ông Lung đã bán nhà mà không được sự đồng ý của bà Hiền như lập luận trong kháng nghị của Viện Kiểm sát”. Như vậy, trong quá trình giao kết hợp đồng, bà Hiền không ký vào hợp đồng và cũng không phản đối gì. Điều đó có nghĩa là trong quá trình giao kết hợp đồng, bà Hiền đã im lặng. Mặc dù vậy, theo HĐTP, bà Hiền đã đồng ý chấp nhận hợp đồng và điều đó được suy luận từ việc bà Hiền yêu cầu thực hiện hợp đồng.
+ Yếu tố thứ hai có thể là bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng tiếp nhận việc thực hiện hợp đồng của bên kia và cũng tiến hành thực hiện hợp đồng từ phía mình. VD: theo Quyết định số 38/GĐT-DS ngày 29/03/2004 của Tòa dân sự TANDTC, vào ngày 03/01/2003, anh Nguyên ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thuộc sở hữu của hai vợ chồng anh cho vợ chồng anh chị Kỷ, Lộc. Theo TANDTC, việc “Lập hợp đồng chuyển nhượng diện tích đất trên tuy không có mặt của chị Bá (vợ anh Nguyên) nhưng căn cứ vào biên bản giám định… và lời khai của chị Bá thì trong quá trình thực hiện hợp đồng, chị Bá đã tham gia nhận tiền hai lần. Mặt khác, tháng 06/2001, khi vợ chồng chị Bá, anh Nguyên chuyển về tp HCM đã bàn giao toàn bộ nhà, đất và tài sản khác cho vợ chồng chị Kỷ, anh Lộc. Như vậy có cơ sở khẳng định chị Bá biết và cũng đồng ý chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho vợ chồng chị Kỷ, anh Lộc”.
+ Yếu tố thứ ba có thể là bên giữ im lặng trong quá trình giao kết biết rõ việc thực hiện hợp đồng nhưng không có phản đối gì. VD: theo Quyết định số 27/2003/HĐTP-DS ngày 26/08/2003 của HĐTP TANDTC, “Năm 1991 và 1993, ông Quang đã bán ao, đất vườn. Ông Khánh, bà Vân, ông Tuyến và cụ Lạc (đồng thừa kế) có biết và được nhận tiền bán đất từ ông Quang mà không có ý kiến gì. Nay các ông, bà này yêu cầu được chia thừa kế lại, Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của họ là chưa đủ căn cứ”. Ở đây, theo TANDTC, người giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng biết hợp đồng và không có ý kiến gì thì có nhiều khả năng họ đồng ý chấp nhận hợp đồng[1].
+ Yếu tố thứ tư có thể là dựa vào lời khai của bên giữ im lặng trong quá trình giao kết hợp đồng khi lời khai này cho thấy rằng người giữ im lặng đã đồng ý hợp đồng. VD, theo Bản án số 228/DSPT ngày 02/02/2005 của TAND tp HCM, ông Xáng ký giấy chuyển quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Đức, bà Hạnh nhưng không có chữ ký của bà Muống vợ ông Xáng. Theo TAND tp HCM: “Mặc dù bà Muống không ký tên trên hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất cho ông Đức, bà Hạnh nhưng tại tờ trình của ông Xáng, bà Muống lập ngày 15/01/2002 và tại các biên bản lời khai của Tòa án lập vào các ngày 20/11/2002, ngày 25/09/2003 đều thể hiện việc bà Muống cùng ông Xáng đồng ý chuyển quyền sử dụng đất cho ông Đức, bà Hạnh, sau đó lại đổi ý. Do đó, việc Tòa án xác định bà Muống phải liên đới cùng ông Xáng chịu trách nhiệm về các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất đối với ông Đức, bà Hạnh là phù hợp với quy định…”. Như vậy, dựa vào những lời khai sau khi hợp đồng được giao kết mà Tòa án xác định bên không ký vào hợp đồng đã chấp nhận hợp đồng.
Tham khảo tham luận của Tòa DS TANDTC tại hội nghị tổng kết ngành tòa án năm 2008:” Trên thực tế có nhiều trường hợp người quản lý tài sản chung (một trong các đồng chủ sở hữu) chuyển nhượng tài sản thuộc sở hữu chung nhưng không có đủ các đồng chủ sở hữu tham gia ký kết văn bản chuyển nhượng hoặc sự đồng ý bằng văn bản của các chủ sở hữu chung khác. Tuy nhiên, có căn cứ xác định là những chủ sở hữu chung này đồng ý việc chuyển nhượng đó, sau này do giá trị tài sản tăng lên hoặc vì một lý do nào đó, nên những chủ sở hữu chung này và cả người trực tiếp giao kết hợp đồng chuyển nhượng tài sản đã lợi dụng việc khi chuyển nhượng tài sản không được sự đồng ý bằng văn bản của các chủ sở hữu chung khác để yêu cầu tuyên bố giao dịch vô hiệu. Trong trường hợp này, Tòa dân sự cho rằng cần phải xác định đã có sự thống nhất ý chí của các đồng chủ sở hữu về việc chuyển nhượng nên hợp đồng không vô hiệu do vi phạm điều kiện về ý chí của các đồng chủ sở hữu. Qua thực tế xét xử, Tòa dân sự thấy cần chấp nhận những căn cứ xác định đã có sự đồng ý của đồng chủ sở hữu là:
- Những chủ sở hữu chung này biết việc chuyển nhượng và không phản đối;
- Những chủ sở hữu chung này có tham gia vào một giai đoạn nào đó của việc chuyển nhượng như tham gia nhận tiền,…’
- Tuy khi chuyển nhượng, những chủ sở hữu chung này không biết nhưng sau khi biết có việc chuyển nhượng đã sử dụng chung tiền chuyển nhượng hoặc được người chuyển nhượng chia tiền chuyển nhượng tài sản…”.
5. Chị Linh có biết, có phản đối việc thế chấp trên không?
- Chị Linh có biết về việc chồng mình thế chấp tài sản vay nợ của ngân hàng
do khối tài sản này là tài sản chung của hai vợ chồng nên khi đi vay nợ
ngân hàng sẽ cần phải có sự đồng ý và chữ kí của cả hai vợ chồng thì hợp
đồng vay nợ mới được chấp thuận.
6. Theo Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao trong vụ việc được bình luận, nếu
chị Linh biết và không phản đối việc thế chấp thì có được coi là chị Linh
đồng ý không? Đoạn nào của quyết định cho câu trả lời?
- Theo Quyết định 439/2011/DS-GĐT ngày 16-6-2011 có nêu: “Tuy nhiên,
khối tài sản anh Đạt thế chấp cho Ngân hàng là tài sản chung của anh Đạt
và chị Linh (vợ của anh Đạt), nhưng các hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất nêu trên mới chỉ có chữ ký của anh Đạt nên cũng cần phải xem
xét chị Linh có biết việc chuyển nhượng hay không? Nếu chị Linh biết mà
không phản đối thì phải coi chị Linh cũng đồng ý việc chuyển nhượng. Nếu
chị Linh không biết và không đồng ý chuyển nhượng thì cần phải căn cứ
vào quy định của pháp luật để giải quyết.
7. Hướng giải quyết trên của Tòa dân sự đã có tiền lệ chưa? Cho biết tiền lệ
mà anh/chị biết.
- Hướng giải quyết trên của tòa đã có tiền lệ rồi.
8. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân dân
tối cao liên quan đến việc xác đinh sự đồng ý của chị Linh.
- Hướng giải quyết của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao liên quan đến
việc xác định sự đồng ý của chị Linh là chính xác vì Tòa án vẫn chưa xác
định rõ chị Linh có biết về việc chuyển nhượng của chồng mình hay không
nên nếu trong trường hợp chị Linh biết mà im lặng không có ý kiến gì thì
coi như là hợp đồng chuyển nhượng của chồng chị Linh là có hiệu lực, nếu
chị Linh hoàn toàn không biết gì về sự việc nêu trên thì coi như bản hợp
đồng chuyển nhượng trên là không có hiệu lực, vì phần tài sản tranh chấp
trên là tài sản chung của hai vợ chồng chị Linh nên chị Linh là người có
quyền lợi liên quan trong vụ án này.
Vấn đề 2: Đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được
1.Các quy định trong khoản 1 Điều 411 BLDS hiện hành đã tồn tại đã tồn tại trong BLDS 1995 chưa?
Các quy định trong khoản 1 Điều 411 BLDS hiện hành không tồn tại trong BLDS 1995.
2.Nhìn từ góc độ văn bản, một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều 411 BLDS không?
Nhìn từ góc độ văn bản, một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng trên vô hiệu trên cơ sở Điều 411 BLDS.
1. Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.”
3.Nhìn từ góc độ xét xử, một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu trên cơ sở Điều 411 được không?
Nhìn từ góc độ xét xử, một bên có thể yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu trên cơ sở Điều 411 được.
4.Suy nghĩ của anh/chị về điều 411BLDS hiện hành (có nên giữ nguyên hay thay đổi và nếu thay đổi thì nên thay đổi như thế nào?
Điều 411 Khoản 1 BLDS quy định: "Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu” là qui định chỉ rõ đối tượng của hợp đồng cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Nhưng quy định này chỉ được đề cập đến trong từng chế định cụ thể của giao dịch dân sự, chứ không được quy định bao quát tại Điều 122 BLDS - điều luật quy định chung về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Do đó, chúng ta nên bổ sung thêm điều kiện về đối tượngvào các điều kiện để giao dịch dân sự có hiệu lực tại Điều 122 BLDS. Và như vậy, nếu Điều 127 quy định là: "Giao dịch dân sự vi phạm một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu” thì BLDS sẽ bao quát và thống nhất hơn.
Vấn đề 3: Xác lập hợp đồng giả tạo nhằm tẩu tán tài sản.
- Đối với sự việc thứ nhất
1.Thế nào là giả tạo trong xác lập giao dịch?
Theo quy định tại Điều 129 BLDS “ Khi các bên xác lập giao dịch dân sự
một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao tịch giả tạo vô hiệu,
còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô
hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác định giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.
một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao tịch giả tạo vô hiệu,
còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô
hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác định giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu”.
2.Đoạn nào của quyết định cho thấy các bên có giả tạo trong giao kết hợp đồng?
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích gì?
“Tuy giao dịch giữa bà Nguyễn Thị Khánh Vân …….,bà Vân khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho nhà nêu trên.” (đoạn 1 phần Xét thấy)
Các bên xác lập giao dịch có giả tạo với mục đích giảm tiền thuế nộp cho nhà nước.
3.Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm đối với hợp đồng giả tạo và hợp đông bị che giấu và suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lí của Tòa giám dốc thẩm về hợp đồng giả tạo và hợp đông bị che giấu.
Theo tòa giám đốc thẩm, theo quy định tại điều 129 BLDS thì hợp đồng tặng cho nhà 69/4B2 Phạm Văn Chiêu lập ngày 5/6/2006 tại phòng công chứng số 5 thành phố Hồ chí Minh giữa bà Vân và bà Tuyết đương nhiên bị vô hiệu.
Theo em, hướng xử lí của Tòa giám dốc thẩm về hợp đồng giả tạo và hợp đông bị che giấu là hoàn toàn hợp lí.
- Đối với sự việc thứ hai
1. Đoạn nào của bản án cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tịnh, bà Quỳnh với bà Sáu được xác lập sau khi có quyết định của tòa án buộc ông Tịnh thực hiện nghĩa vụ với bà Huệ?
“Ngày 11/5/2010 ông Tịnh và bà Quỳnh đã kí hợp đồng chuyển nhượng toàn bộ nha,đất nêu trên cho bà Trần Thi Sáu tại phòng công chứng và được công chứng viên chứng thực là để trả nợ ngân hàng.”
2. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án đã xác định việc lập hợp đồng trên là nhằm trốn tránh nghĩa vụ?
“ Như vậy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản trên đất giữa ông Tịnh, bà Quỳnh với bà Sáu là chưa hoàn thành.Việc ông Tịnh và bà Quỳnh chuyển nhượng cho bà Sáu đất và tài sản trên là nhằm trốn tránh nghĩa vụ.”
3.Cho biết hệ quả của việc Tòa xác định hợp đồng trên là hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ?
Hệ quả của việc Tòa xác định hợp đồng trên là hành vi nhằm trốn tránh nghĩa vụ là sẽ khiến hợp đồng đó đương nhiên bị vô hiệu.
Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng vô hiệu theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch đó vô hiệu.”
4.Nếu hợp đồng chuyển nhượng trên được xác lập sau khi ông Tịnh có quyết định của tòa án buộc ông Tịnh thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bà Huệ có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu không? Vì sao?
Nếu hợp đồng chuyển nhượng trên được xác lập sau khi ông Tịnh có quyết định của tòa án buộc ông Tịnh thực hiện nghĩa vụ dân sự thì bà Huệ không thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì khi không phải thực hiện nghĩa vụ dân sự với bà Huệ thì ông Tịnh ,bà Quỳnh có toàn quyền định đoạt phần tài sản trên.
Vấn đề 3: Đứng tên giùm mua bất động sản
1.Trong trường hợp bà Mỹ, chị Đặng gửi tiền về nhờ vợ chồng bà Hằng, ông Thạnh mua đất cất nhà thì,theo Tòa án nhân dân Tối cao, cần phải xử lí như thế nào?
Trong trường hợp bà Mỹ, chị Đặng gửi tiền về nhờ vợ chồng bà Hằng, ông Thạnh mua đất cất nhà thì,theo Tòa án nhân dân Tối cao thì phải định giá nhà tranh chấp.Nếu giá đất thấp hơn số tiền bà Mỹ,chị Đặng gửi về thì phải công nhận vợ chồng bà Hằng có quyền sở hữu nhà,đồng thời buộc vợ chồng bà Hằng trả lại giá trị quyền sử dụng đất. Nếu giá đất cao hơn số tiền bà Mỹ,chị Đặng gửi về thì chỉ buộc vợ chồng bà Hằng trả lại cho chị Mỹ,chị Đặng số tiền đã gửi về,phần còn lại chia cho các bên theo công sức thực tế.
2.Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân Tối cao đã có đã có tiền lệ chưa? Nêu rõ tiền lệ mà anh/chị biết.
Hướng giải quyết của Tòa án nhân dân Tối cao đã có đã có tiền lệ :
Bản án 06/2009/DS-ST ngày 5-10-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng
Tháp (trích Luật hợp đồng VN – bản án và bình luận bản án, NXB chính trị
quốc gia 2011 (tái bản lần 3)): ông Rock Paul yêu cầu số tiền ông Paul gửi
về là 30.200FF x 3677FF/VND = 111.045.400 đồng giá trị căn nhà và đất
theo định giá: 548.591.500 đồng, trừ lại số tiền 111.045.400 đồng =
437.546.100 đồng. Số tiền này chia cho ông Paul ½ và bà Hạnh, bà Hương,
ông Pháp ½ : 437.546.100/2 = 218.773.050 đồng, như vậy ông Paul được
chia số tiền là 218.773.050 đồng và trả lại số tiền 30.200FF. Theo quyết
định của tòa án chấp nhận yêu cầu của ông Rock Paul; buộc bà Hạnh, bà
Hương, ông Pháp trả lại số tiền cho ông Rock Paul số tiền 30.200FF và
218.773.050 VND.
Tháp (trích Luật hợp đồng VN – bản án và bình luận bản án, NXB chính trị
quốc gia 2011 (tái bản lần 3)): ông Rock Paul yêu cầu số tiền ông Paul gửi
về là 30.200FF x 3677FF/VND = 111.045.400 đồng giá trị căn nhà và đất
theo định giá: 548.591.500 đồng, trừ lại số tiền 111.045.400 đồng =
437.546.100 đồng. Số tiền này chia cho ông Paul ½ và bà Hạnh, bà Hương,
ông Pháp ½ : 437.546.100/2 = 218.773.050 đồng, như vậy ông Paul được
chia số tiền là 218.773.050 đồng và trả lại số tiền 30.200FF. Theo quyết
định của tòa án chấp nhận yêu cầu của ông Rock Paul; buộc bà Hạnh, bà
Hương, ông Pháp trả lại số tiền cho ông Rock Paul số tiền 30.200FF và
218.773.050 VND.
3.Nếu bà Mỹ,chị Đặng ngày nay đủ điều kiên để đứng tên sở hữu nhà đất ở Việt Nam và mong muốn sở hữu nhà đất có tranh chấp thì cần phải xử lí như thê nào? Vì sao?
Nếu bà Mỹ,chị Đặng ngày nay đủ điều kiên để đứng tên sở hữu nhà đất ở Việt Nam và mong muốn sở hữu nhà đất có tranh chấp thì cần tạo điều kiện để bà Mỹ,chị Đặng có thể sở hữu phần nhà đất trên và bồi thường cho vợ chồng bà Hằng số tiền chênh lệch tương ứng theo công sức thực tế bỏ ra.Vì trong trường hợp này, vợ chồng bà Hằng đã bỏ ra công sức nhất định giúp bà Mỹ xây cất nhà.
Khoản 2 Điều 65 Nghị định 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành và hướng dẫn thi hành Luật nhà ở quy định: “Tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư thì được sở hữu nhà ở theo quy định của Luật nhà ở. Trường hợp mua nhà ở tại Việt Nam thì được sở hữu nhà ở theo quy định của Nghị Quyết 19/2008/QH12 ngày 3/6/2008 của Quốc hội về việc thí điểm cho tổ chức, cá nhân nước ngoài mua và sở hữu nhà ở tại Việt Nam...”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét