Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

Buổi thảo luận thứ 6: BTTH NHĐ

Buổi thảo luận thứ 6:

Vấn đề 1: Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường

1)Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?
- Không phải trong trường hợp nào người gây thiệt hại cũng phải bồi thường
thiệt hại cho người bị thiệt hại. Do đó việc xác định những yếu tố, cơ sở làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là rất quan trọng
nhằm xác định trách nhiệm bồi thường, người phải bồi thường, người được bồi
thường và mức bồi thường. Là một loại trách nhiệm pháp lí, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại phát sinh khi thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định, đó
là:
- Có thiệt hại xảy ra: Thiệt hại là điều kiện bắt buộc trong trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói chung, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
riêng bởi mục đích của trách nhiệm bồi thường thiệt hại là nhằm bù đắp, khắc
phục những tổn thất đã xảy ra cho người bị thiệt hại, do đó nếu không có thiệt
hại thì cũng không phát sinh trách nhiệm bồi thường cho dù có đầy đủ các điều
kiện khác. Khi xác định thiệt hại để bồi thường cần lưu ý các thiệt hại này phải
thực tế, xác định được.
- Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại: hành vi trái pháp luật gây thiệt hại để
phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là những hành vi mà pháp
luật cấm, không cho phép thực hiện, có thể là hành vi vi phạm pháp luật hình sự,
hành chính, dân sự, đường lối chính sách của Đảng…. Cơ sở để xác định hành
vi trái pháp luật là căn cứ vào các quy định của pháp luật trong từng trường hợp
cụ thể.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra: hành
vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân và thiệt hại được coi là hậu quả. Về
mặt nguyên tắc, hành vi trái pháp luật phải có trước và thiệt hại có sau. Thiệt hại
xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật. Xác định mối quan hệ
nhân quả trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có ý nghĩa hết
sức quan trọng.
- Có lỗi của người gây thiệt hại: lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Hình thức lỗi là thái độ tâm lý
của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô
ý. Lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi suy đoán.

2)Thế nào là hành vi trái pháp luật? Nêu cơ sở pháp lí khi trả lời?
- Hành vi trái pháp luật là hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, quá phạm vi cho phép của pháp luật.

3)Trong vụ việc trên, ông Trung có hành vi trái pháp luật không? Vì sao?
Trong vụ việc trên, ông Trung có hành vi trái pháp luật. Vì ông Trung đã thực hiện hành vi gây thiệt hại, trái với quy định của pháp luật.

4)Trong vụ việc trên có tồn tại thiệt hại, mói quan hệ nhân quả giữa hành vi thiệt hại và hành vi trái pháp luật không? Vì sao?
Trong vụ việc trên có tồn tại thiệt hại, mốii quan hệ nhân quả giữa hành vi thiệt hại và hành vi trái pháp luật. Vì thiệt hại xảy ra cho người khác được xuất phát từ hành vi trái pháp luật của ông Trung.Nếu ông Trung không thực hiện hành vi trai pháp luật thì sẽ không costhietj hại bị xảy ra.

5)Thế nào là lỗi với tư cách là một căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng?
Lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây ra thiệt hại, lỗi được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Lỗi trong trách nhiệm dân sự là lỗi suy đoán.Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.
Vô ý gây thiệt hại là một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại mặc dù phải biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây ra thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.
Lỗi là một trong bốn điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng và trách nhiệm dân sự nói chung. Con người phải chịu trách nhiệm khi họ có lỗi, có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bởi vậy, những người không có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình sẽ không có lỗi trong việc thực hiện các hành vi đó.



6)Lỗi và hành vi trái pháp luật nêu trên khác nhau ở điểm nào?
 Về bản chất, lỗi được xác định là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể hiện thông qua các quy định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho phù hợp với pháp luật, tránh gây thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh thái độ nhận thức của người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện.
- Hành vi trái pháp luật là những hành vi được thực hiện trái với những quy định của pháp luật như không làm những việc mà pháp luật yêu cầu, làm những việc mà pháp luật cấm, quá phạm vi cho phép của pháp luật.
Như vậy có thể xem hành vi trái pháp luật là hình thức còn lỗi là nội dung của một vi phạm pháp luật. Một hành vi trái pháp luật được thực hiện không đương nhiên bao gồm yếu tố lỗi.

7)Trên cơ sở sự khác biệt giữa lỗi và hành vi trái pháp luật nêu trên, ông Trung có lỗi trong việc gây thiệt hại không? Vì sao?
Trên cơ sở sự khác biệt giữa lỗi và hành vi trái pháp luật nêu trên, có thể nói ông Trung không có lỗi trong việc gây thiệt hại. Vì khi thực hiện hành vi trái pháp luật, ông Trung không thể nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật do đang mắc bệnh tâm thần.

8)Trong thực tiễn xét xử, đối với hoàn cảnh như ông Trung nêu trên, người gây thiệt hại có chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không? Nếu có, cho biết thực tiễn xét xử mà anh/chị biết.
- Trong thực tiễn xét xử, đối với hoàn cảnh như ông Trung nêu trên, người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà người giám hộ sẽ phải chịu trách nhiệm.
Do có mâu thuẫn từ trước vì tranh chấp đất đai, sáng 31-7-2010, giữa gia đình bà D.T.D.T và vợ chồng ông N.H.M (cùng ngụ huyện Mang Thít, Vĩnh Long) đã xảy ra cự cãi, xô xát.
Trong lúc hai bên xô xát, con gái của ông M. đã dùng dao đâm bà T.
Theo kết quả giám định, bà T. bị tổn hại sức khỏe 45%. Tuy nhiên, Công an huyện Mang Thít không khởi tố con gái của ông M. vì người này bị bệnh tâm thần, chỉ áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau đó, TAND huyện Mang Thít cũng ra quyết định tuyên bố con gái của ông M. bị mất năng lực hành vi dân sự.
Tháng 5-2011, bà T. đã gửi đơn đến TAND huyện Mang Thít khởi kiện vợ chồng ông M. đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại. Theo bà T., thương tật của bà do con gái của ông M. gây ra nhưng người này bị mất năng lực hành vi dân sự nên vợ chồng ông M. (người giám hộ của người bệnh) phải bồi thường tổng cộng gần 80 triệu đồng.
Từ yêu cầu trên, TAND huyện Mang Thít đã đưa vụ kiện ra xử sơ thẩm. Theo Tòa, công an đã xác định việc con gái của ông M. dùng dao đâm vào ngực bà T. gây thương tật 45% là có thật. Xét việc bà T. yêu cầu vợ chồng ông M. phải bồi thường thiệt hại cho bà là có căn cứ. Bởi lẽ tại thời điểm gây thương tích cho bà T. cũng như hiện nay, con gái của ông M. là người bị mất năng lực hành vi dân sự, chưa có chồng và cũng không có tài sản riêng. Theo quy định thì vợ chồng ông M. là người giám hộ nên phải chịu trách nhiệm dân sự với hành vi của con mình.
Sau khi phiên xử kết thúc, vợ chồng ông M. đã làm đơn kháng cáo vì không phục phán quyết của tòa sơ thẩm.
Điều 22 Bộ luật dân sự quy định rõ mất năng lực hành vi dân sự là: “Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định….
Trước khi có kết luận của cơ quan điều tra, chưa có quyết định của tòa án tuyên bố con gái ông M mất năng lực hành vi mà có sau thời điểm cơ quan điều tra quyết định không khởi tố vụ án. Như vậy khi gây án con gái ông M đã trên 18 tuổi và có “năng lực hành vi”. Nên thực tế con gái ông M phải chịu trách nhiệm bồi thường chứ không phải vợ chồng ông M. Nên bản án sơ thẩm của TAND huyện Măng Thít là chưa thỏa đáng.
Xét về “lý” bản án chưa chính xác nhưng xét về “tình”, dường như vẫn còn nhiều điều để bàn. Có thể gia đình ông M biết rõ con gái mình bị tâm thần, nhưng không quản lý tốt cũng như các biện pháp chữa bệnh. Hậu quả sẽ nghiêm trong hơn nếu thương tích của bà T không dừng lại ờ mức 45% mà dẫn đến chết người?

9)Suy nghĩ của anh/ chị vế vai trò của yếu tố lỗi trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Yếu tố lỗi trong những căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cần thiết vì việc xác định hình thức lỗi cố ý và lỗi vô ý trong vi phạm hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc xác định giới hạn và phạm vi của trách nhiệm bồi thường thiệt hại, hay nói cách khác yếu tố lỗi cố ý và lỗi vô ý được dùng để xác định mức độ bồi thường thiệt hại. Trong thực tiễn xét xử, Tòa án cần xem xét cụ thể mức độ lỗi của các bên vi phạm nghĩa vụ để quyết định mức độ bồi thường thiệt hại.  

Vấn đề 2: Xác định thiệt hại vật chất khi tính mạng bị xâm hại
1)Đoạn nào của bản án trên cho thấy Tòa án đã chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí vé máy bay và thuê ô tô với tư cách là chi phí hợp lí cho việc mai táng?
“Hội đồng xét xử xét thấy,...tổng 37.275.000đ”.

2)Nghị quyết 03 của HĐTP có quy định chi phí hợp lí đi lại dự tang lễ được bồi thường không? Nêu rõ cơ sở pháp lí khi trả lời 
Nghị quyết 03 của HĐTP không có quy định chi phí hợp lí đi lại dự tang lễ được bồi thường “Các khoản chi phí hợp lý quy định tại các điểm a và c khoản 1 Điều 609, các điểm b và c khoản 1 Điều 610 và điểm a khoản 1 Điều 611 BLDS là chi phí thực tế cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí.”


3)Trong vụ việc trên Tòa án có biết ai bỏ ra chi phí máy bay và thuê ô tô trên không?
Trong vụ việc trên Tòa án không biết ai bỏ ra chi phí máy bay và thuê ô tô vì điều này không được nhắc đến.

4)Căn cứ vào thực tiễn xét xử, cách giải quyết trên có thuyết phục không? Vì sao?
Căn cứ vào thực tiễn xét xử, cách giải quyết trên rất thuyết phục. Vì trên thực tế chi phí máy bay và thuê ô tô có thể được xem là chi phí hợp lí phù hợp với tập tục địa phương và cần thiết trong trường họp này.Chi phí này được xem như chi phí hợp lia cho việc mai táng.
BLDS 2005 quy định:“Điều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.”

Theo NQ03/HĐTP :“2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.
2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...”

5)Nếu đó là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự tang lễ thì có dược bồi thường không? Vi sao?
Nếu đó là chi phí mà cháu nạn nhân bỏ ra để dự tang lễ thì đó không dược bồi thường vì đây không thể dduowcj coi là chi phí hợp lí cho việc mai táng theo quy đình tai điểm b Khoản 1 Điều 610.

6)Tòa án đã buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho ai? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án đã buộc người gây thiệt hại phải bồi thường tiền cấp dưỡng cho hai cháu Phạm Thị Thu và Phạm Quỳnh Nga.
“Về trợ cấp....của pháp luật” trang 6 phần Xét thấy.

7)Suy ngĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến tiền cấp dưỡng
Theo em hướng giải quyêt trên của Tòa án liên quan đến tiền cấp dưỡng là hợp lí, theo đúng quy định của pháp luật.

8)BLDS có quy định ngày bắt đầu trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng là ngày nào?
Theo BLDS,thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.
“Theo Điều 612 BLDS:
2. Trong trường hợp người bị thiệt hại chết thì những người mà người này có nghĩa vụ cấp dưỡng khi còn sống được hưởng tiền cấp dưỡng trong thời hạn sau đây:
a) Người chưa thành niên hoặc người đã thành thai là con của người chết và còn sống sau khi sinh ra được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi đủ mười tám tuổi, trừ trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động và có thu nhập đủ nuôi sống bản thân;
b) Người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động được hưởng tiền cấp dưỡng cho đến khi chết.”


9)Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên qun đến ngày bắt đầu trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng.
Về hướng giải quyết của Tòa án liên qun đến ngày bắt đầu trách nhiệm bồi thường tiền cấp dưỡng là hợp lí khi tính bắt đầu từ ngày 25/5/2008 tực ngày tính mạng anh Quyên bị xâm phạm.

10)Nếu cháu Nga sinh ngày 28/10/2008 thì ngày bắt đầu trách nhiệm cấp dưỡng là ngày nào? Vì sao?
Là ngày 25/10/2008 vì theo hướng dẫn tại Quyết định 03/HĐTP thì ngày bắt đầu cấp dưỡng phải là ngày tính mạng bị xâm hại.

Vấn đề 3: Xác định người có trách nhiệm bồi thường (cùng gây thiệt hại)
1)Trong phần “trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” của BLDS, trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong những trường hợp nào?
"Điều 616. Bồi thường thiệt hại do nhiều người cùng gây ra
Trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của từng người cùng gây thiệt hại được xác định tương ứng với mức độ lỗi của từng người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau."
Như vậy, theo BLDS thì trách nhiệm dân sự liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh trong trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại.

2)Trong Bản án số 19, Bà Khánh bị thiệt hại trong hoàn cảnh nào ? Có xác định chính xác được người gây thiệt hại cho bà Khánh không?
Người gậy thiệt hại cho bà Khánh.

3)Đoạn nào của Bản án số 19 cho thấy Tòa án đã theo hướng chị Tám, chị Hiền và anh Hải liên đới bồi thường?
“Về phần thiệt hại tài sản...bảy ngàn đồng).”Trang 4 phần xét thấy.

4)Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về trách nhiệm liên đới.
Theo em, hướng giải quyết trên của Tòa án về trách nhiệm liên đới là hoàn toàn hợp lí vì trên thực tế cả anh Hải, chị Hiền, Chị Tám đều có lỗi trong việc gây ra thiệt hại cho bà Khánh.

5)Trong quyết định số 226, ai là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ?
Trong quyết định số 226, bà Trần Thị Lan là người trực tiếp gây thiệt hại cho bà Hộ.

6)Trong quyết đính số 226, ai là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Hộ?
Trong quyết đính số 226, ông Trần Thúc Bảo là người phải liên đới bồi thường thiệt hại cho bà Hộ.

7)Hướng giải quyết trong quyết định số 226 đã có tiền lệ chưa ? Nếu có nêu tóm tắt tiền lệ đó.
Ko bik làm

8)Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm liên đới.
Hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến trách nhiệm liên đới là hợp lí và đúng theo quy đinh của pháp luạt.
Theo quy định của BLDS hiện hành thì trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 616 và tại đoạn 2 khoản 4 Điều 623, khoản 2 Điều 625 BLDS, ba điều luật này đều quy định trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong những trường hợp cụ thể, riêng Điều 616 bên cạnh việc quy định về căn cứ làm phát sinh trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại còn quy định phương pháp xác định mức bồi thường thiệt hại của các chủ thể trong trách nhiệm liên đới (căn cứ vào mức độ lỗi của mỗi người, nếu không các định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau).

9)Bản án số 19, bà Khánh đã yêu cầu bồi thường bao nhiêu và yêu cầu ai bồi thường?
Bà Khánh yêu cầu anh Hải, chị Tám,chị Hiền phải bồi thường số tiền 800.000đ.

10)Bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường bao nhiêu?
Bản án số 19, Tòa án đã yêu cầu anh Hải bồi thường 267.000đ cho bà Khánh.

11)Suy ngĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải.
Theo em,hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến anh Hải là hợp lí khi chỉ yêu cầu anh Hải bồi thường 1/3 số thiệt hại bà Khánh đưa ra bởi lẽ gây ra thiệt hại cho bà Khánh còn có bà Hiền và bà Tám với mức đội lỗi ngang nhau.

Vấn đề 4: Giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế

1) Theo BLDS, trong những điều kiện nào một người được giảm mức thiệt mà họ có trách nhiệm bồi thường? Nêu rõ từng điều kiện được quy định trong BLDS.
Việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được giải quyết theo các quy định tại các Điều từ Điều 604 đến Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2005 và Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006.
- Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau:
a- Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại.
b- Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

2) Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án xác định bà Lan có lỗi vô ý đối với thiệt hại của của ông Mạnh?
“Trong trường hợp này việc xảy ra cháy nhà...là phù hợp” trang 4 phần Xét thấy.

3) Suy nghị của anh/chị về cách xác định lỗi vô ý trên của Tòa án đối với bà Lan
Theo em, cách xác định lỗi vô ý trên của Tòa án đối với bà Lan là hợp lí. 


4) Đoạn nào của Bản án cho thấy Tòa án giảm mức bồi thường cho bà Lan?
“...tuy nhiên đây chỉ là lỗi vô ý và hoàn cảnh kinh tế của bà Lan...là phù hợp”trang 4 phần xét thấy.

5) Mức bồi thường được giảm bao nhiêu? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Mức bồi thường được giảm là 145.200.200đ -> 76.160.000đ.
“tuy nhiên đây chỉ là lỗi...là hợp lí”.trang 4 phần xét thấy.

6) Suy nghĩ của anh/ chị về việc Tòa án quyết định giảm mức bồi thường cho bà Lan( đánh giá từng điều kiên nêu trong BLDS để giảm mức bồi thường).
Theo em,việc Tòa án quyết định giảm mức bồi thường cho bà Lan là hợp lí.Vì
+ lỗi của bà LAn trong trường hợp này là lỗi vô ý
+ Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài củabà Lan.

7) Nếu bà lan không có lỗi(mà vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường) thì có thể yêu cầu giảm mức bồi thường không? Vì sao?
Nếu bà Lan không có lỗi(mà vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường) thì có thể yêu cầu giảm mức bồi thường vì lỗi là một trong những yếu tố xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng trong lỗi vô ý, người gây thiệt hại không nhìn thấy trước được hậu quả và không mong muốn hậu quả xảy ra nên có thể coi đây là căn cứ yêu cầu giảm mức bồi thường.

8) Suy nghĩ của anh/chị về các quy định liên quan đến giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn trong BLDS.
Theo em,các quy định liên quan đến giảm mức bồi thường do hoàn cảnh kinh tế khó khăn trong BLDS thể hiện tính nhân văn của pháp luật Việt Nam,phù hợp với truyền thông văn hóa của người Việt Nam.Tuy nhiên việc giảm mức bồi thường cũng cần xét đến hình thức lỗi của người gây thiệt hại là cố ý hay vô ý để đảm bảo sựu công bằng và bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét